Albert Camus sinh tại Mondovi, thuộc
vùng Constantinois, miền Ðông Algérie, ngày 7 tháng 11 năm 1913
và mất ở Villeblevin, gần Montereau, phía đông nam Paris, trong
một tai nạn xe hơi ngày 4 tháng 1 năm 1960. Xuất thân trong
một gia đình nghèo, học triết song phải bỏ dở vì bệnh
lao. Bệnh tật và nghèo đói là hai yếu tố tác thành cái
mà sau này Camus gọi là phi lý và tạo nên một ước muốn
gần như vô vọng để sống còn, đó là nền móng cơ bản
trong Camus con người và tác phẩm.
Bắt đầu viết báo và gia nhập
đảng Cộng Sản từ năm 1934 đến 1937. Tại Alger, Camus xây
dựng nhóm Théâtre du travail (Kịch Lao Ðộng), điều
khiển một nhà văn hóa và cho in hai tập tiểu luận đầu
tiên: L'envers et l'endroit (Bề Trái Và Bề Mặt), 1937 và
Noces
(Giao Cảm(1)), 1938. Giữa những năm 38 và 40, hoạt động của
Camus trong tờ Alger Républicain rồi Soir Républicain
tố cáo những bất hạnh của người Hồi giáo, đã buộc
ông phải rời bỏ Algérie vì bị chính quyền thuộc địa
trù ếm, không kiếm được việc làm.
Trong đại chiến thứ hai, tại Pháp,
Camus làm việc cho Combat (Ðấu Tranh) ngay khi tờ báo còn trong
thời kỳ bí mật. Sau khi nước Pháp được giải phóng, Camus
trở thành chủ bút tờ Combat, một diễn đàn quan trọng trong
lịch sử báo chí Pháp.
Năm 1942, cho in tập Le mythe de Sisyphe (Huyền Thoại
Sisyphe) và cuốn tiểu thuyết đầu tiên L'étranger (Người
Xa Lạ), hai tác phẩm chủ yếu của Camus. Tiếp theo là hai
kịch bản Le malentendu (Ngộ Nhận) 1944 và Caligula 1945.
Năm 1945, khi người dân thành phố Sétif ở Algérie
nổi dậy và bị đàn áp đẫm máu, Camus đã tìm mọi cách
đánh động lương tâm người Pháp nội địa. Nhưng vô hiệu.
Năm 1937, tiểu thuyết La peste (Dịch Hạch) ra
đời, tạo được tiếng vang lớn. Rồi sự xuất hiện của
tập tiểu luận L'homme révolté (Người Nổi Loạn) năm
1951, dẫn đến các cuộc bút chiến sôi nổi và sự đoạn
tuyệt giữa Sartre và Camus. Sartre trách Camus, trong cách phê
bình đã lẫn lộn Nazi và Staline, trong khi Camus chỉ muốn xác
lập một thứ đạo đức quần chúng hướng về tình nhân
loại, trực diện với tội ác, một cách nối dài Dịch
Hạch. 1956 xuất hiện La chute (Sa Ðọa(2)), tác phẩm
quan trọng cuối cùng của Camus.
Giải thưởng Nobel 1957 trao cho toàn
bộ sự nghiệp văn học của Albert Camus. Kết hợp hài hòa
giữa ba yếu tố: Con người, hành động và tác phẩm, Camus
tạo ra một toàn bộ chữ nghĩa hướng về thân phận con người,
khởi đi từ phi lý, dẫn đến nổi loạn và tự do.
Albert Camus, giữa ánh dương
và khốn cùng
"Je fus placé à mi-distance de la misère et du soleil".
Tôi đã được đặt giữa khốn cùng và mặt trời. Tôi sinh
ra giữa ánh dương và cùng khốn. Albert Camus viết như thế
trong tập tiểu luận đầu tay L'envers et l'endroit (Bề
Trái Và Bề Mặt) xuất hiện năm 1937 tại Alger. Khốn cùng
và mặt trời, là hai diện sắc của Algérie Châu Phi, quê hương
Albert Camus, nhà văn nhân bản nhất của Pháp trong thế kỷ
XX.
Ngay từ những trước tác đầu tiên, khi còn rất
trẻ, Camus đã nhìn nỗi đau Alger như một vết thương mở
ngỏ về phía trời (Alger ... s'ouvre dans le ciel comme une bouche
ou une blessure). Noces là một tập tùy bút tình ca viết
cho quê hương Algérie, quê hương của màu da, của nghèo đói,
dậy mùi khổ ngải(3) đắng cay, rạng ánh mặt trời và thẳm
sâu biển cả. Noces là một tụng ca tình đất và tình người.
Noces hôn phối những địa danh Tipasa, Djémila, Oran, Alger với
sa mạc, với những khổ đau và nô lệ, với niềm hoan lạc
vô bờ trong tình yêu và sự xác tín về cái chết vô vọng
rút ra từ kinh nghiệm một "nghề làm người" (métier
d'homme).
Sau này, Camus giải thích cách phân phối tác phẩm của
mình:
"Trước hết, tôi muốn diễn
tả sự phủ định dưới ba hình thức: bằng tiểu thuyết
với Người Xa Lạ, bi kịch với Caligula và Ngộ Nhận, và
tư tưởng với Huyền Thoại Sisyphe.
Tôi tiên liệu khía cạnh tích
cực, cũng dưới ba hình thức: tiểu thuyết với Dịch Hạch,
bi kịch với L'état de siège (Tình Trạng Giới Nghiêm) và Les
justes (Những Kẻ Chính Trực) và tư tưởng với L'homme révolté
(Người Nổi Loạn). Tôi còn ức đoán một từng lớp thứ
ba chung quanh chủ đề tình yêu." Nhưng chủ đề
cuối cùng chưa kịp viết xong, Camus mất.
*
Cùng trong phong trào hiện sinh, Albert
Camus vừa gần, vừa xa Jean Paul Sartre ngay từ những năm 30.
Từ lý thuyết hiện sinh -được định vị như sự đi tìm
bản thể của con người- Albert Camus giữ lại những hướng
chính, đặc biệt là:
- Nhân bản: Chủ nghĩa hiện sinh như một chủ
nghĩa nhân bản (Sartre). Nhân bản đã nằm trong bản chất
Camus con người, đã chi phối cái viết của Camus từ những
tác phẩm đầu tiên nghiêng mình xuống Alger đau khổ, đã
định hướng những hành động chính trị của Camus, chống
lại tội ác đến từ mọi phía (chính phủ thuộc địa, Ðức
Quốc Xã, Staline, ...)
- Phi lý như một cốt lõi của phận người. Ðưa
ra mẫu hình người phi lý, nhân vật Meursault trong L'étranger.
- Dấn thân: Chỉ có hành động và qua hành động
con người mới thật sự tự do, mới tạo được bản chất
của mình.
Có thể nói Albert Camus và Simone de Beauvoir là hai nhánh
lạc quan của hiện sinh, tin rằng con người có thể có hạnh
phúc trong cuộc đời phi lý.
*
Hai tác phẩm lớn đầu tiên của
Camus xuất hiện năm 42 là một cặp bài trùng: Huyền Thoại
Sisyphe và Người Xa Lạ. Huyền Thoại Sisyphe
phân tích phi lý dưới dạng triết lý, và tiểu thuyết Người
Xa Lạ đưa ra hình ảnh cụ thể của người phi lý. Chính
xác hơn Huyền Thoại Sisyphe là tập hiện tượng luận
mổ xẻ hai vấn đề: phi lý và tự tử, tìm mối tương quan
giữa hai hiện tượng này. Hai nhân vật Sisyphe và Meursault
là chứng từ cho tính chất phi lý trong thân phận con người.
Mở đầu Huyền Thoại Sisyphe, Camus nói ngay:
"Chỉ có một vấn đề triết
lý thực sự nghiêm chỉnh, đó là tự tử. Xét xem đời đáng
sống hay không đáng sống, là trả lời cho câu hỏi cơ bản
của triết học." (trang 17, Folio Essais, 1998). Và tác giả đã
trả lời câu hỏi này bằng biện chứng phân tâm đối tượng.
Sisyphe là một nhân vật huyền
thoại Hy Lạp, được Homère coi như kẻ minh mẫn nhất và
cẩn trọng nhất trong bọn nhân sinh. Nhưng lại có những ý
kiến khác rất tiêu cực về Sisyphe. Và đó là lý do khiến
các vị thần thánh đã đầy đọa Sisyphe xuống địa ngục,
bắt phải triền miên lấy hết sức bình sinh lăn một hòn
đá lớn từ chân núi lên trên đỉnh núi, nhìn nó rơi xuống.
Rồi lại từ từ xuống núi, và cố gắng lăn nó trở lên
đỉnh...
Sisyphe là biểu tượng của người
phi lý: Hình ảnh Sisyphe không xa với hình ảnh một người
thợ, một người lao động tay chân hay trí óc: suốt ngày
làm một công việc, suốt đời làm một công việc, hoàn tất
rồi, lại quay trở lại bắt đầu một công trình khác cũng
y như trước. Thân phận con người nào cũng có một chút Sisyphe
ở trong: sáng vác ô đi, tối vác ô về. Ðiều đáng chú ý
nhất là lúc Sisyphe xuống núi, ý thức được những cố gắng
mình vừa hoàn thành, ý thức được tính phi lý của đời
mình mà còn có can đảm bắt đầu lại: Lúc đó Sisyphe lớn
lao hơn định mệnh và ngoan cường hơn đá tảng: Ðó là giá
trị, đó là hạnh phúc của con người. Camus kết luận: "Sự
tranh đấu để đạt tới những đỉnh đủ để lấp đầy
trái tim con người. Phải mường tượng là Sisyphe sung sướng."
(trang 168)
Tất cả biện chứng trong huyền
thoại Sisyphe quay quanh vấn đề: Ðời phi lý, vậy có đáng
sống không? Và kết luận lô-gích nhất trong sự khám phá
tính chất phi lý phổ quát của cuộc đời, đó là tự tử.
Tại sao Sisyphe không tự tử để chấm dứt thân phận nghiệt
ngã của mình? Camus từ chối lô-gích tự tử. Bởi cuộc đời
dù phi lý, dù vô nghĩa, không có nghĩa là đời không đáng
sống. Ngược lại, trong cái vô nghĩa ấy, con người tồn
tại, Sisyphe chấp nhận tính vô nghĩa của cuộc đời và tìm
thấy hạnh phúc trong thân phận phi lý.
*
Trong tiểu thuyết Người Xa Lạ,
nhân vật Meursault trở thành người phi lý bằng xương bằng
thịt, thoát khỏi huyền thoại.
Meursault bắt đầu câu chuyện của mình bằng câu:
"Hôm nay mẹ chết. Hay có thể
là hôm qua. Tôi không biết." (trang 9, Folio, 1975)
Trong suốt hành trình tiểu thuyết, Meursault luôn luôn
lập đi lập lại ý tưởng: Tôi không
biết (je ne sais pas). Không có
gì hết (rien). Sao cũng được
(ça m'est égal). Thì cũng thế thôi
(ça revient au même): Bất khả tri là bộ
mặt thứ nhất của hiện sinh con người.
Mẹ chết ở nhà dưỡng lão. Meursault đến thăm mẹ
ở nhà xác. Người gác cửa đề nghị mở quan tài cho anh
ta xem mặt mẹ. Meursault từ chối. Hỏi tại sao. Trả lời
không biết.
Lang thang trên bờ biển với bạn. Rồi đánh lộn.
Rồi giết người. Ra tòa, người ta hỏi: tại sao giết người?
Meursault trả lời: Không biết. Rồi bỗng buột miệng: Tại
trời nắng (à cause du soleil). Cả tòa cười ầm lên.
Meursault không hiểu tại sao người ta cười. Tất
cả bi kịch của Meursault xoay quanh hai vấn đề: Tính chất
phi lý và bất khả tri trong thân phận con người.
Bất khả tri -Meursault không
biết, không hiểu- Meursault là nguồn cội của sự "xa lạ",
nơi con người, đối chất với những biện luận, biện chứng
của ý thức hệ chính trị, đạo đức hay tôn giáo, luôn
luôn có tính cách giác ngộ giáo điều, làm chủ tình thế,
làm chủ cái biết, muốn dạy bảo và giáo dục con người.
Meursault biểu trưng cho "cái không biết" của
con người, về người khác, về chính mình. Cái "xa lạ"
giữa mình với người khác, cái xa lạ giữa mình và chính
mình. Và đó là nỗi đơn côi cùng cực của con người đối
với chính mình: Sự xa lạ đối với chính mình.
Dưới ánh nắng chói chang của Alger, trong lúc lang thang
trên bờ biển, sau khi đánh lộn, nếu trời không nắng quá.
Xin nhấn mạnh: nếu trời không nắng quá, Meursault có lẽ
đã không phải bước dấn lên một bước để tránh ánh mặt
trời chói chang rọi vào mắt. Chính cái bước dấn thêm đó
đã làm cho gã Ả-Rập -vừa đánh lộn với bọn Meursault lúc
trước- giật mình, rút dao găm ra để phòng thủ và đưa Meursault
đến hành động giết người -cũng để tự vệ-.
Nhưng cái nắng quái ác đó không nằm trong một lô-gích
chấp nhận được của quan tòa, mặc dù: tính chất bất kỳ,
phi lý là điều kiện thứ nhất của nhân sinh. Trừ mặt trời,
Meursault không biết tại sao mình giết người. Trước tòa
Meursault hoàn toàn ở trong sương mù như nghe người ta nói
về một người khác: Quan tòa, thẩm phán, công tố, nhân chứng,
luật sư ... gỡ tội hay buộc tội, mỗi người tạo ra một
luận chứng hùng hồn, dựng lên những thoại xa lạ, hoàn
toàn không dính dáng gì đến Meursault. Họ tạo nên một thế
giới "xa lạ" của những con người không thực biết
về nhau. Một thế giới bất khả tri. Bất khả tri nằm trong
thân phận con người.
Mounier, khi phê bình Camus đưa ra nhận xét: "Con người
phi lý không phải là con người được giải phóng mà là con
người bị vây khổn không có ngày mai." Thật vậy. Con người
phi lý không thể giải thích, bởi mọi giải thích đều vô
ích, đều là đối thoại với bức tường. Chỉ còn lại
hai giải pháp, hoặc là làm loạn, hoặc chấp nhận phi lý.
Bị kết án tử hình. Thoạt tiên, đối diện với viên linh
mục tư tế (aumônier), Meursault nổi loạn, chống đối, gào
thét sự vô tội của mình. Chống đối tính chất phi lý của
thân phận. Nhưng rồi Meursault chấp nhận phi lý và cuối cùng,
trước khi bị xử, "anh cảm thấy mình
hạnh phúc và mong ước có nhiều người đi xem cuộc hành
hình và đón nhận anh với những lời hò hét căm thù."
(trang 187)
Người Xa Lạ một trong những cuốn tiểu thuyết
chủ yếu của Pháp trong thế kỷ XX. Tính chất bí mật, văn
phong lạ, cách đặt vấn đề thân phận con người lồng trong
hai nét chính phi lý và bất khả tri, mở cửa cho nhiều ngòi
bút khác đến sau. Người xa lạ như một bi kịch kín của
con người muốn khám phá bản thân mình trong một mê cung,
không lối thoát, và cho đến phút chót, người ấy vẫn "xa
lạ" với chính mình.
*
Trong Dịch Hạch (La peste) thủ
phạm của phi lý là vi trùng bệnh dịch. Oran, thành phố Algérie
bên bờ Ðịa Trung Hải, thành phố bị bệnh dịch hạch, Oran
đóng cửa trao thân cho dịch hạch, cắt đứt với thế giới
bên ngoài và ném dân mình chồng chất lên nhau mà chết, người
nọ đè lên người kia, trong cô đơn, không lối thoát.
Vi trùng dịch hạch ẩn dụ thực tại lịch sử: Ðại
chiến thứ hai với vi-rút Nazi tàn phá, tiêu diệt con người.
Dịch hạch chao đảo giữa hai thực tại: bệnh dịch thể
xác và bệnh dịch tâm hồn, trở thành một mẫu mực về
sự tàn phá nhân sinh, tự tâm thế của nhân sinh; chúng cầm
chân con ngườì trong một tư thế bấp bênh giới hạn giữa
sống và chết.
Tuy Rieux là người "anh hùng" đứng lên chống dịch
hạch, nhưng Camus từ chối mọi lý tưởng có tính chất lãng
mạn cổ điển thánh giáo; ông tin vào hiện hữu, tin vào mỗi
giây phút hiện tại của đời sống. Tranh đấu chống dịch
hạch, bác sĩ Rieux không ở trong khái niệm "anh hùng" kiểu
Malraux, Rieux nhận trách nhiệm của mình như một kẻ hành
nghề, vì nghề, nghề thuốc và nghề làm người.
Rieux trả lời cha Paneloux:
"Cứu rỗi nhân sinh là một chữ
quá lớn đối với tôi. Tôi không nhìn xa như thế. Tôi chỉ
chú ý đến sức khỏe. Sức khỏe con người trước tiên." (trang
198, Folio 1980)
Bởi sức khỏe là hiện sinh, là
đời sống, là đang sống, là vấn đề của con người. Cứu
rỗi là lý tưởng, là hy vọng, là kiếp sau, là vấn đề
của Thượng Ðế. Người thầy thuốc không hy vọng vào sự
sống ra ngoài sự sống như người thầy tu. Sáng suốt, Rieux
biết rõ: Cái chết đối với con người chỉ là án treo. Cuối
cùng rồi ai cũng phải chết. Rieux ý thức được rằng chiến
đấu với bệnh dịch chỉ để kéo dài thêm án treo,
và cuộc chiến đấu ấy vô ích, có tính chất Sisyphe ở trong,
nhưng không thể không có được. Vì nó là cơ bản, là nguồn
hạnh phúc và lý do tồn tại của con người.
Camus - L'homme révolté, Người
Nổi Loạn
Trong tác phẩm Dich Hạch, bệnh dịch Nazi càn
quét, tiêu hủy Âu Châu, nhưng vẫn có những Rieux điềm tĩnh
và can trường "hành nghề làm người", cố gắng phấn
đấu với dịch trùng, ngăn chặn làn sóng giết người, chống
lại phi nhân bằng có nhân, chống lại tội ác bằng nhân
bản. Dịch Hạch là tác phẩm của một Camus lạc quan
và tin tưởng vào cuộc đời phi lý.
L'homme révolté, Người Nổi Loạn, có thể xem
như một biến điệu của Dịch Hạch trong thể tiểu
luận hùng văn. Tác giả muốn đề nghị với độc giả một
suy nghiệm toàn bộ về tiến trình nổi loạn và tội ác.
Ðứng trước tính chất phi lý của
cuộc đời, nổi loạn là cần thiết, là phương tiện duy
nhất để vượt qua thân phận phi lý. Nhưng tại sao từ cơ
nguyên chính đáng của những người bị đàn áp, người nổi
loạn lại chuyển hướng, liên kết với tội ác để tác
thành những thể chế độc tài, toàn trị trong thế kỷ XX?
Người Nổi Loạn được Camus xác định như
một cố gắng của tác giả để tìm hiểu thế hệ của ông.
Theo Camus, vấn đề chủ yếu trong thế kỷ XX là vấn đề
giết người.
Camus viết: "Ở thời điểm phủ
định, đặt vấn đề tự tử là hữu ích. Ở thời điểm
ý thức hệ, phải luận về sự sát nhân. Nếu giết người
có những lý do của nó, thì thế hệ chúng ta và chính chúng
ta cùng liên hệ. Nếu giết người không có lý do thì chúng
ta đang điên rồ, và không có ngả nào khác hơn ngoài sự
nhìn nhận hậu quả hoặc phải chuyển hướng. Dù sao chăng
nữa, chúng ta phải trả lời rõ ràng câu hỏi đặt ra, trong
máu và trong tiếng gào thét của thế kỷ, bởi vì chúng ta
đang bị tra vấn. Ba mươi năm trước, trước khi quyết định
giết người, người ta đã chối dài, đến độ tự chối
bằng tự tử. Thượng Ðế lừa dối, con người đồng lõa,
trong có chính tôi, vì vậy tôi chết: tự tử là vấn đề.
Ý thức hệ hôm nay chỉ phủ
nhận người khác như những kẻ duy nhất lừa dối. Vì thế
người ta giết người. Tảng sáng, những kẻ sát nhân huy
chương đầy ngực mò về tiểu tổ: Tội ác là vấn đề." (L'homme
révolté, trang 16-17, Folio, Essais)
Người Nổi Loạn thực chất viết về lịch
sử nổi loạn của con người, đi từ kinh thánh, truyền thuyết,
xuyên qua các tư tưởng Hy Lạp đến các cuộc cách mạng hiện
đại, biện chứng bằng các hình tượng tìm thấy trong tôn
giáo, chính trị, văn học, triết học...
Người Nổi Loạn tiếp nối huyền thoại Sisyphe:
Ý thức được tính cách phi lý trong thân phận con người,
sự nổi loạn là một tất yếu. Qua hai mươi bẩy năm tù
tội oan ức, Sade (1740-1814) là người đầu tiên đã hệ thống
hóa hình thức "nổi loạn tuyệt đối". Bị ngược đãi
tuyệt đối, Sade trả lời bằng cái không tuyệt đối (le
non absolu) trong giấc mơ tận diệt loài người. Sade trình bày
một Thượng Ðế sát nhân, đầy đọa và chối bỏ con người.
Nếu Thượng Ðế giết người và từ chối con người
thì làm sao ngăn được người-giết-người và người-chối-bỏ-người?
(trang 59) "Nổi loạn tuyệt đối" dẫn đến "Nổi
loạn siêu hình".
Nổi loạn siêu hình là sự nổi loạn của con người
chống lại điều kiện nhân sinh, chống lại thân phận. Nổi
loạn siêu hình dẫn đến "Nổi loạn lịch sử": Nổi
loạn lịch sử dẫn đết giết vua và máy chém.
Nhưng trước tiên, người nổi loạn
là gì? Camus trả lời: là người nói: Không. Nhưng nếu hắn
từ chối, hắn không từ bỏ: hắn cũng là kẻ đã nói vâng
ngay từ đầu. Một người nô lệ, đã ngoan ngoãn nhận lệnh
chủ suốt đời, bỗng tự nhiên hắn cưỡng lại: Không! Tiếng
không này có nghĩa gì? Có nghĩa rằng: Quá lắm rồi, chịu
hết nổi. Chữ không chứng tỏ cái giới hạn mà người chủ
không thể vượt qua. Phản kháng là hành động ý thức được
cái ranh giới mà kẻ đàn áp không thể vượt qua. Người
phản kháng có thể chấp nhận cái chết. Chết đứng, chứ
không chịu sống quỳ. (trang 27)
Nổi loạn, trước tiên là ý thức cá nhân chống lại
điều kiện nhân sinh, rồi trở thành ý thức cộng đồng:
"Tôi
nổi loạn, vậy chúng ta cùng nổi loạn." (Je révolte donc
nous sommes)
Một người nô lệ nổi lên chống chủ, chỉ là một
người chống lại một người khác, trên trái đất dã man,
xa những nguyên tắc của Thượng Ðế. "Kết quả là sự
ám sát một người."
Tất cả những cuộc nổi loạn như nổi loạn nô
lệ, nổi loạn nông dân, nổi loạn khốn cùng... hầu như
đều đi trên một con đường: ác giả ác báo.
Sự nổi loạn của Spartacus, một vài thập niên trước
kỷ nguyên Gia Tô là một ví dụ (trang 143). Ðầu tiên là sự
nổi dậy của cá nhân Spartacus, một giác đấu (gladiateur),
kéo theo một nhóm giác đấu (tức là những người nô lệ,
bị bỏ vào đấu trường giết nhau, làm thú tiêu khiển cho
chủ). Nổi loạn thành công, bọn giác đấu thả bọn chủ
[La Mã] vào đấu trường và kẻ nô lệ lại ngồi trên khán
đài xem lũ chủ cũ giết nhau: Vấn đề đảo ngược, nhưng
chung quy vẫn là sự giết người. Spartacus thất bại: Không
thể lật đổ bạo quyền bằng bạo lực. Máu dẫn đến máu.
Giết người không dẫn đến một nguyên tắc bình đẳng mà
chỉ có thể tăng trưởng, khuếch trương hành động sát nhân.
Camus viết: Muốn cho nguyên tắc chính trực thắng thế thì
phải tiêu diệt nguyên tắc bất chính (trang 144), chứ không
thể giết người. Các cuộc cách mạng xưa nay dựa trên nguyên
tắc diệt người. Diệt người Do Thái là rường mối của
chế độ phát-xít: một nhóm người độc trị coi những kẻ
khác là nô lệ. Diệt giai cấp là rường mối của chế độ
mác-xít, nhân danh một ý thức hệ hứa hẹn tự do, cơm áo
cho ngày mai để sử dụng con người hôm nay.
Tất cả những cuộc cách mạng hiện
đại đều đưa đến sự củng cố sức mạnh của thế quyền
nhà nước: Cách mạng 1789 của Pháp dẫn đến đế chế chuyên
chính của Napoléon, 1848 mở ngõ cho Napoléon đệ tam; cách mạng
1917 dẫn đến Staline. Rồi Mussolini và Hitler (trang 226). Camus
trong L'homme révolté, đã đi từ "khủng bố cá nhân" để tiến
tới "khủng bố nhà nước". Hitler đã sáng tạo ra cái gọi
là "chuyển động chinh phục không ngừng": Nhà nước biến
thành bộ máy vận hành chuyển động ấy, tức là bộ máy
chinh phục và đàn áp. Mussolini, luật gia la-tinh, dựa trên
"lý do quốc gia" (raison d'Etat), biện luận để tuyệt đối
hóa quan niệm này: "Không có gì ngoài Quốc gia, trên Quốc
gia, chống lại Quốc gia. Tất cả là của Quốc gia, cho Quốc
gia, ở trong Quốc gia." Và Ðức Quốc Xã đã bồi bổ thêm
cho lập luận này một hình thức tôn giáo. Một tờ báo Nazi
viết: "Bổn phận thiêng liêng của chúng ta là phải dìu dắt
người về nguồn, người về mẹ. Thực ra, đó là phụng
sự Thượng Ðế." (trang 233)
Ai là Thượng Ðế ở đây? Một
tuyên ngôn chính thức của đảng cho biết: "Mọi người trên
trần hãy tin tưởng vào Adolf Hitler, vị Fuhrer (nguyên thủ)
của chúng ta... và (tâm niệm) rằng đảng Quốc Gia Xã Hội
là niềm tin duy nhất đưa dân tộc đến miền vĩnh phúc(4)."
Marx, với chủ trương vô thần tuyệt đối, đặt "Người
trên địa vị tối cao của con người." Nhìn dưới khía cạnh
này, chủ nghĩa xã hội của Marx là một "kỹ nghệ" thần
thánh hóa con người. Marx vừa là tiên tri trưởng giả, vừa
là tiên tri cách mạng. Tín ngưỡng khoa học của Marx thoát
thai từ nguồn gốc trưởng giả: Sự tiến bộ, tương lai
của khoa học, tôn thờ kỹ thuật và sản xuất là những
huyền thoại đã tạo thành những tín điều của thế kỷ
XIX.
Hạ bệ Thượng Ðế cũng là một trong những dòng
tư tưởng chủ yếu của thế kỷ XIX. Nietzsche (1844-1900) có
đọc Sade. Triết học Ðức phần nào đã môi giới cho các
cuộc cách mạng vô thần của thế kỷ XX.
Mussolini tự cho mình "chịu ảnh hưởng" Hegel, Hitler
"ảnh hưởng" "siêu nhân" của Nietzsche.
Những tiên liệu của Hegel về con người toàn diện,
của Nietzsche về cái chết của Thượng Ðế và giấc mơ thần
thánh hóa con người của Marx, cuối cùng đều dẫn đến những
nhà nước, hợp pháp hay không hợp pháp, nhưng cả hai đều
là những nhà nước khủng bố, sau khi Thượng Ðế bị tiêu
diệt. (trang 227-228)
Bẩy triệu người Do Thái vào lò thiêu, bẩy triệu
người Âu Châu bị giết hay bị lưu đầy, mười triệu nạn
nhân chiến tranh, chưa đủ cho lịch sử phán đoán, lịch sử
đã quá quen với tội ác. Nhưng với Hitler, sự càn quét cuối
cùng mới thực là ghê gớm: Tại phiên tòa Nuremberg, theo nhân
chứng của Speer, Hitler, sau khi bại trận, đã đòi hỏi một
cuộc tự vận toàn diện, tiêu hủy hoàn toàn nước Ðức.
Ðối với Hitler, chỉ có một giá trị độc nhất là thành
công. Ðức thất bại. Ðức đê hèn và phản bội. Ðức phải
chết. Hitler nói: "Nếu dân tộc Ðức không có khả năng thắng,
dân tộc Ðức không xứng đáng sống." Hitler là một khuôn
mặt độc tài duy nhất trong lịch sử, càn quét tất cả những
gì trên đường đi, chỉ để lại cho dân tộc và nhân loại
hai yếu tố: giết người và tự tử. (trang 236)
*
Nhưng thần tượng phát-xít, mặc
dù có muốn "dìu dắt" thế giới, cũng không bao giờ mơ tưởng
đến một "đế quốc toàn cầu" (empire universel). Hitler, ngạc
nhiên trước những "thành công" của mình, đã hướng phong
trào "tỉnh lẻ" của y về một giấc mơ không chính xác của
một đế quốc Ðức không có gì liên hệ với "thế giới
đại đồng".
Người cộng sản, ngay từ nguồn
phát xuất, nước Nga, đã tiên liệu sẽ đi đến Thế giới
đại đồng của nhân loại. Người cộng sản Nga, dựa vào
tham vọng siêu hình (mà cuốn L'homme révolté trình bày và mô
tả) để hình thành, sau cái chết của Thượng Ðế, một
thế gìới mà con người được thánh hóa. (trang 238)
Tóm lại, đây là lần đầu tiên
trong lịch sử, một chủ nghĩa và một phong trào dựa trên
bạo lực võ trang, dám đưa ra mục đích là cuộc cách mạng
tối hậu và Ðại đồng chung cục cho nhân loại. (trang 238)
Theo Marx, tất cả hiện thực con người tìm thấy nguồn
cội trong tương quan sản xuất. Kinh tế. Cái sẽ trở thành
lịch sử là cách mạng, bởi vì kinh tế là cách mạng.
Con người như thế, theo Marx, vừa là tác giả, vừa
là diễn viên của lịch sử đời mình. Những người chủ
trương dân chủ cực đoan (Jacobins) thời cách mạng 1789, lật
đổ tính ưu việt của một Thượng Ðế riêng tư để thay
bằng tính ưu việt của các nguyên tắc. Marx xây dựng chủ
nghĩa vô thần hiện đại bằng cách triệt hạ luôn cả các
nguyên tắc. Niềm tin, ở năm 1789, được thay bằng lý trí.
Marx triệt hạ tính ưu việt của lý trí và thẩy nó vào lịch
sử. (trang 253)
Tư bản luận lấy lại biện chứng chủ và tớ của
Hegel, nhưng thay thế khái niệm "ý thức về mình" bằng "độc
lập kinh tế" [con người là một con vật có ý thức về mình
(Hegel), con người là một con vật độc lập kinh tế (Marx)].
Và thay thế: "sự thống trị chung cục của tinh thần" bằng
"sự hình thành chủ nghĩa cộng sản." (trang 253)
Con người sinh ra cùng với sản xuất và xã hội.
Sự bất công đến từ "sở hữu", đến từ các giai cấp
xã hội. Lịch sử con người là lịch sử đấu tranh giai cấp.
Phải triệt tiêu giai cấp. Triệt hạ sở hữu. Không phải
giai cấp vô sản thần thánh gì, nhưng vì họ bị đầy đọa
trong những điều kiện vô nhân nhất. Nhiệm vụ của người
vô sản là phải làm rạng nhân cách tối thượng trong cái
nhục nhã tối cao. Vì đau khổ và đấu tranh, người vô sản
trở thành người-chúa (homme christ), đã chuộc lỗi bán chúa.
Nhưng vị Chúa-Người này còn là chúa phục thù. Hắn thực
thi, theo Marx, án lệnh mà tư sản tự mang trong mình "Tất cả
những ngôi nhà ở thời đại này đều bị đánh dấu bằng
một cái thập tự đỏ bí mật. Quan tòa là lịch sử, là
kẻ thi hành bản án: Người vô sản." (trang 260)
Camus viết: "Sự đòi hỏi công lý trở thành phi công
lý nếu nó không dựa, trước tiên, trên một nền tảng biện
minh có đạo đức về công lý. Thiếu điều đó, tội ác
sẽ trở thành nhiệm vụ." (trang 265)
Cuộc đấu tranh giai cấp, từ nay,
sẽ đẫm máu và phản lại tất cả mọi hình thức nổi loạn.
Trong cuộc cách mạng mới này "tương lai" là sở hữu tối
cao mà những chủ thể cách mạng hứa hẹn sẽ dành cho những
nô lệ mới: Một thiên đường chung cục trong thế giới đại
đồng xã hội chủ nghĩa.
*
L'homme révolté, Người Nổi Loạn, ra đời năm
1951, giữa thời kỳ chiến tranh lạnh như một quả bom. Camus
bị tứ phía kết tội, nhất là những bạn đồng hành trong
nhóm Les Temps Modernes (Thời Mới), chủ yếu là Sartre.
Lúc đó, Camus và Sartre, cả hai đều biết sự hiện
diện của các trại cải tạo dưới thời Staline. Camus chủ
trương phải đưa sự thực ra ánh sáng, nhưng Sartre cho rằng
phải thận trọng, không nên làm thối chí thành phần vô sản.
Hầu hết những nhà phê bình thiên
tả hoặc có chân trong đảng Cộng Sản, kịch liệt phản
đối tác phẩm của Camus, trong đó có Breton (Camus viết rất
nặng về Lautréamont và phân chất siêu thực như một thứ
thi ca phản kháng nửa mùa, làm mồi cho bạo lực vô cớ).
Tạp chí Thời Mới, qua bài viết của Francis Jeanson, phê phán
nặng nề Người Nổi Loạn. Camus trả lời, gửi cho chủ bút
(Sartre), ngụ ý rằng Sartre đã ném đá dấu tay. Sartre đáp
lại Camus trong một bài viết, giọng lịch sự nhưng cực kỳ
mỉa mai, khinh mạn và cao ngạo(5), với những hàng: "Trời
ơi, Camus, sao anh trịnh trọng thế, và để dùng một chữ
của anh, sao anh tầm phào thế! Nếu anh đã lầm? Nếu cuốn
sách của anh chỉ chứng minh một cách đơn giản sự không
thông thạo triết học của anh? Nếu nó chỉ là một mớ kiến
thức thu lượm vội vã, học lóm (seconde main)? [...] Nếu anh
lý luận không đúng lắm? Nếu những tư tưởng của anh hời
hợt và tầm thường? [...] Tôi không dám khuyên anh đọc cuốn
Hữu Thể Và Hư Vô (L'être et le néant(6)), e việc đọc sẽ
gây hiểm hóc cho anh: anh ghét những khó khăn tư tưởng ..."
Camus không trả lời. Họ dứt khoát đoạn tuyệt.
Năm 1960, khi Camus mất, Sartre, trong
bài tưởng niệm, có những dòng rất cảm động: "Vừa
mới hôm qua, chúng tôi vẫn còn hỏi nhau: Anh ấy có sẽ lên
tiếng không? Sớm muộn thế nào rồi anh ấy cũng lên tiếng...
Tôi thầm hỏi: Anh nghĩ sao? Anh nghĩ sao ngay lúc này đây?"
*
Camus không trả lời nhưng "lịch
sử" đã trả lời: Camus có lý. Những người cùng thời với
Camus đã không đủ chín chắn, bình tĩnh để chấp nhận lập
luận của Camus về mối tương quan giữa "công lý" và "đạo
đức", giữa "cách mạng" và "tội ác". Ở thời điểm 1951,
phần đông trí thức còn đang tin vào lý tưởng Cộng Sản,
vào Staline. Camus nhìn xa hơn Sartre về vấn đề này. Mãi tới
năm 1956, khi chiến xa Xô-Viết tiến vào Hung Gia Lợi, Sartre
mới tỉnh ngộ. Một điểm này và chỉ một điểm này thôi,
Camus xứng đáng là nhà văn nhân bản và sáng suốt nhất của
Pháp trong thế kỷ XX. Ðúng như Sartre đã viết trong bài tưởng
niệm Camus: "Trong thế kỷ này, chống lại lịch sử, anh tiêu
biểu cho con người hôm nay -thừa kế truyền thống sâu rộng
của các nhà văn đạo đức- tác thành tác phẩm, có lẽ độc
đáo nhất trong văn học Pháp."
Camus và La chute, Sa Ðọa, Quỵ
Ngã
Ở ghế bị "buộc tội", Camus đã
im lặng trong nhiều năm, không sáng tác gì mới, từ 51, (Người
Nổi Loạn), đến 56, La chute ra đời. La chute có
thể là sự "trả lời" thầm lặng của Camus, với thế giới
quan tòa đã xử ông những năm 51, 52.
Nhân vật chính, Clamence trong La chute, có nhiều nét
giống những bạn đồng hành với Camus ngày trước, đặc
biệt "rất Sartre": "đại trí thức", thông thái, trịch thượng,
nhà ở khu la-tinh, gần Saint Germain des Prés -cái nôi của hiện
sinh-, xuống đường, đấu tranh cho những "nghĩa vụ lớn",
"nghĩa vụ nhỏ". Nhưng La chute không chỉ dừng lại ở sự
"trả lời", thanh toán một cuộc luận chiến cá nhân, mà nó
đã đi xa, đi đến một chân trời khác trong sự suy nghiệm
của con người về bản thân mình. Với Người Nổi Loạn,
Camus muốn giữ khoảng cách với phong trào hiện sinh, Camus
chí trích vô thần và cộng sản. Nhưng chính Camus, với La
chute, lại quay về với hiện sinh trong cái nghĩa sâu xa
nhất: La chute đi tìm bản thể con người.
La chute (Sa Ðọa(7)) là tác
phẩm bí mật và lạ kỳ nhất của Camus. Bí mật và lạ kỳ
như thể chất con người. Tác phẩm phản ánh ý nghĩa đích
thực của triết học hiện sinh trên đường đi tìm bản thể.
La chute sục lọi, soi mói cái bản thể rách rưới, mờ ám
của cá nhân con người, qua Jean Baptiste Clamence, một nhân vật
mập mờ giữa buộc tội và sám hối, nửa quan tòa (juge),
nửa người phạm tội ăn năn (pénitent).
Camus đã lật trái, lật phải, soi cho tỏ cùng cái
tính chất khả nghi của Clamence để đưa đến kết luận:
Không thể có ánh sáng nào giải quyết được sự mờ ám
của con người, phân biệt được đâu là tốt, đâu là xấu,
đâu trắng, đâu đen, đâu là ăn năn, đâu là buộc tội.
Nhưng Camus cũng lại là người từ chối "nhãn hiệu"
hiện sinh mà người ta hay gán cho ông. Ở chỗ từ chối đó,
xuất hiện mối tương phản mà La chute mổ xẻ: sự mập mờ
trong tư tưởng và hành động của con người: Jean Baptiste
Clamence là ai?
Bằng một thể văn độc đáo, Camus dựng lên nhân
vật Clamence như cái bóng của nhân sinh. Toàn truyện là độc
thoại, một thể độc thoại vấn đáp giả tưởng giữa hai
người. Clamence nói chuyện với một người (vô hình) trước
mặt. "Sự hiện diện" của kẻ kia, không qua ngôn ngữ đối
thoại trực tiếp mà qua phản ứng của Clamence: Tôi có làm
phiền ngài không? Kìa, trời lại mưa nữa. Chúng ta trú dưới
thềm nhà này nhé. Tôi nói đến đâu rồi nhỉ? Chuyện không
quan trọng à?
Họ gập nhau lần đầu, trong một tửu điếm khả
nghi có tên lạ kỳ Mexico-City tại Amsterdam, bến tầu đón
nhận những thủy thủ tứ xứ. Một giọng nói cất lên, vừa
hạ mình, vừa kiêu hãnh lõi đời, sành sỏi, dùng chữ cầu
kỳ, kiểu cách. Giọng nói làm quen với một khách uống rượu
khác, một kẻ đồng hương (người Pháp), không thạo tiếng
Hòa Lan, giúp kẻ đồng hương kia gọi đúng thứ rượu "đỗ
tùng" (genièvre) mà hắn muốn.
Cuộc "đối thoại" bắt đầu. Kẻ nói lân la bắt
chuyện, đưa người nghe vào tự truyện của mình.
"... Ngài may mắn đấy, hắn (chủ
quán) không gầm gừ. Khi hắn không muốn tiếp rượu ai, một
tiếng gầm gừ là đủ. Không ai dám cự nự, đó là lợi
điểm của loài mãnh vật [...] Xin kiếu ngài, rất hân hạnh
được hầu ngài. Ða tạ ngài [...] Ngài tốt bụng quá. Vậy
xin ngài cho phép tôi được sánh ly cùng ngài." (trang
7, 8)
Kẻ nói chừa những lỗ hổng để độc giả "đọc"
được phản ứng của kẻ nghe: Hắn xin kiếu (kẻ kia mời
hắn ở lại). Hắn cảm ơn, nói vài lời xã giao rồi mang
ly lại ngồi cùng bàn. Cứ như thế, kẻ nói dẫn "khách" vào
cuộc đời của hắn. Với những lời thổ lộ -không biết
là bịa hay thật- đứt khúc. Bằng một thứ ngôn ngữ mỉa
mai, châm biếm, rỉa róc, để phân chất những hành vi của
mình và bình luận như một kẻ ngoại cuộc với những luận
bàn thẳng thắn, ác độc.
Hắn tự giới thiệu: Jean Baptiste Clamence. Trước đây
là một luật sư khả kính ở Paris, nổi tiếng liêm khiết,
chuyên đứng về phía công lý, bênh vực quả phụ cô nhi,
không chỉ chăm lo những việc lớn ngoài tòa mà cả những
chi tiết nhỏ nhoi, lặt vặt trong đời sống như dắt người
mù qua đường, tốt với bạn bè, rộng rãi với tình nhân...
Tóm lại Clamence là người thành công và mãn nguyện.
*
Rồi một đêm thu, dạo trên Pont
des Arts (cầu bắc qua sông Seine, gần trường Mỹ Thuật), bỗng
Clamence nghe thấy một tiếng cười ré lên sau lưng. Giật mình
quay lại: Bốn bề tịch lặng. Không một bóng người. Hắn
đi tiếp. Tiếng cười vẫn réo sau lưng, nhỏ dần, như đến
từ bờ nước, từ cõi vô thỉ vô chung, hay tự chính thâm
tâm vọng lại.
Tiếng cười mở cửa vào hậu trường
cái tôi của hắn, nhắc Clamence kiểm điểm lại những hành
vi của mình: à thì ra mình không chỉ là người hùng bênh
vực cô nhi quả phu. Nhớ kỹ hơn, cái bản chất người hùng
ấy, đã có lần bị đôi chút sứt mẻ: Một hôm, đang lái
xe hơi trong thành phố, Clamence dừng xe ở cột đèn đỏ.
Bỗng một gã nhỏ thó, đi mô-tô, chèn lên, đỗ trước mũi
xe hắn, gã vừa ngừng, mô-tô chết máy. Ðèn xanh bật lên,
hắn lịch sự như thường lệ, nói nhỏ nhẹ với gã lái
xe gắn máy làm ơn dịch xe lên lề để người khác đi. Tay
này tỉnh bơ, cứ ngờ ngờ sửa xe giữa đường, lại còn
nổi dóa, lỗ mãng văng tục. Chẳng đặng đừng, hắn bèn
xuống xe, tính nện cho tên láo lếu một trận (hắn to con
gấp đôi gã kia). Không ngờ trong đám đông lại có một tay
ngự lâm anh hùng, giữa đường thấy chuyện bất bình chẳng
tha: Hắn chưa kịp trở tay đã nhận được một đòn
bạt tai trời giáng của tên d'Artagnan hiện đại. Nhưng thay
vì kháng cự, hắn lại ngậm tăm, cun cút quay đầu trở lại
xe mình, ngậm luôn hai chữ "đồ hèn" như món quà đệm, kèm
theo tiếng mô-tô nổ dòn của gã đi xe máy vừa đề-ma-rê
lại được.
Clamence cố quên cái "tai nạn lịch sử" ấy đi. Cả
đời hắn đánh bóng nhãn hiệu người hùng nửa Cerdan (vô
địch quyền anh của Pháp những năm 30-40) nửa de Gaulle của
hắn; nhưng nào có quên được, "sự cố" này nhắc hắn đến
một cái "bản thể" khác, hơi hèn hèn, cùng chung sống trong
cái tôi của hắn. Ngẫm nghĩ kỹ thì hắn chỉ bênh vực những
kẻ có tội, với điều kiện chúng là những kẻ sát nhân
tốt (bons meurtriers) cũng như người ta thường thích bọn mọi
rợ tốt (bons sauvages), nghĩa là tội trạng của chúng không
gây phiền hà cho hắn mà chỉ làm nổi tài hùng biện của
hắn. Ngược lại, khi bị đe dọa, hắn có thể biến ngay
thành một ông tòa quyền uy, đứng trên luật pháp, sẵn sàng
nghiền nát thằng phạm pháp, bắt nó phải quỳ gối, cúi
đầu. Chính hắn, khi dẫn người mù qua đường, đã chẳng
cẩn thận cúi chào người mù một cách lịch sự và trịnh
trọng ư? Cái chào này có nghĩa gì? Người mù đâu có nhìn
thấy? Cái chào này hắn không gửi cho tên mù bất hạnh kia,
mà gửi đến bọn sáng mắt chung quanh, cho chúng thấy cử
chỉ nhân ái và lịch lãm của hắn. Ðó mới là chính diện
của vấn đề: Cái tôi. Tôi. Tôi. Người ta yêu mình trước
rồi mới yêu người. Yêu người chỉ là cái cớ để đánh
bóng nhãn hiệu của mình.
Tiếng cười trên sông Seine, vang lên, như cánh cửa
đầu tiên mở vào hậu trường bản thể của hắn, nhưng
tiếng cười ấy còn nhắc nhở đến một tiếng kêu khác,
cách đấy hai ba năm, trong đêm đông, trên Pont Royal (Cầu Nhà
Vua). Ðầu đuôi câu chuyện là như thế này:
"Lúc ấy vào khoảng một giờ
khuya, mưa nhẹ như mưa phùn làm tản mạn những khách bộ
hành hiếm hoi. Tôi vừa từ giã người tình, chắc nàng giờ
này đã yên ngủ. Tôi sung sướng bước đi, thân thể lắng
đọng với chút tê mê, như được điều dưỡng bằng một
dòng máu dịu mát như mưa bụi. Trên cầu, tôi bắt gặp một
hình hài nghiêng xuống lan can, có vẻ như đang nhìn dòng nước.
Lại gần hơn, tôi nhận rõ dáng vóc mảnh mai của một người
đàn bà trẻ, mặc đồ đen. Giữa mái tóc huyền và cổ áo
măng-tô, để lộ chiếc gáy tươi mát và ẩm ướt khiến
tôi rạo rực. Nhưng sau chút lưỡng lự, tôi tiếp tục bước.
Tới đầu cầu, tôi đi theo bờ sông về phía [đại lộ] Saint
Michel, nơi tôi ở. Ði được dăm chục thước, mặc dù với
khoảng cách và trong cái tịch lặng của đêm khuya, bỗng nghe
một tiếng động dữ dội, tiếng thân người rớt nhào xuống
nước. Tôi đứng khựng nhưng không ngoái lại. Liền đó,
một tiếng kêu cứu dội lên nhiều lần, tiếng kêu xuôi dòng
rồi bỗng tắt hẳn.
Sự im lặng kéo dài sau đó, trong
đêm bỗng đông lại, như vô tận đối với tôi. Muốn chạy
nhưng tứ chi bất động. Tôi run, dường như vì lạnh và vì
hoảng hốt. Vừa tự nhủ phải lẹ lên, vừa cảm thấy nhuệ
khí cùn đi, tứ chi bủn rủn, bất lực. Tôi chẳng nhớ là
lúc đó tôi nghĩ gì, đại loại "muộn quá, xa quá"..., hoặc
điều gì tương tự.
Tôi vẫn lắng nghe, bất động.
Rồi từng bước nhỏ, dưới mưa, lảng xa dần. Không báo
động cho ai hết.
Nhưng chúng ta đã đến nơi rồi,
đây là nhà tôi, chỗ trú của tôi. Mai nhé! Vâng, đúng ý
ngài, tôi sẵn sàng dẫn ngài thăm đảo Marken, ngắm vịnh
Zuyderzee..." (trích dịch trang 61-62, nxb Folio plus, 1997)
Ðoạn văn này là cốt lõi của tác phẩm. Qua giọng
kể thản nhiên, hầu như không có "việc" gì xẩy ra, người
kể, một kẻ đại diện luật pháp, vừa "giết người gián
tiếp", nói đúng hơn là hắn không cứu người, ít ra là không
tri hô cầu cứu khi thấy người khác lâm nguy. Nhưng chưa hết,
còn một chuyện "vặt vãnh" nữa. Một dạo bị tù, trong thời
chiến, hắn được bạn tù bầu làm "giáo hoàng" (biệt hiệu
của người trưởng nhóm, che chở cho cả bọn). "Giáo hoàng"
có nhiệm vụ chia nước cho đồng bọn. Có lần hắn uống
tạm phần nước của một bạn tù hấp hối. Nghĩ cho cùng,
tay này đằng nào cũng chết, còn hắn, với nhiệm vụ "giáo
hoàng" cần phải sống để bảo vệ bạn tù. Trường hợp
"tự vệ" của hắn cũng chẳng khác gì trường hợp "tự vệ"
của giáo hội, đặc biệt là đức giáo hoàng Pie XII, năm
1942, (và cả các đức giáo hoàng khác, thời khác), đã "bắt
buộc" phải đứng về phía trục phát-xít Ðức-Ý-Tây Ban
Nha. Không được buộc tội giáo hoàng. Ngài cần phải đứng
về phía kẻ mạnh để bảo vệ tôn giáo, đó là vấn đề
"nghĩa vụ chung".
*
Tiếng cười trên sông Seine đánh
dấu ngõ quặt trong tư tưởng của Clamence. Trước đó, Clamence
"biết mình" trên bề mặt. Sau đó, Clamence tìm mình trong chiều
sâu. Những điều tưởng như đã chìm xa trong cõi nhớ, nay
lại trở về, rõ ràng như tấm gương phản chiếu, một đời
thứ nhì, một sự thật thứ nhì, hoen ố và nham nhở hơn
bức chân dung người hùng thứ nhất. Ðể quên bức chân dung
thứ nhì tối tăm kia, Clamence quyết định đổi đời: Xông
vào cuộc sống trụy lạc, đàng điếm, tội lỗi, tối tăm...
mong được "lành bệnh". Nhưng ở vào lúc mà hắn hồ hỡi
nhất, tin rằng mình đã bình phục, một hôm, trong chuyến
du thuyền với người tình ở Ðại Tây Dương, đứng trên
lan can tầu, bỗng nhiên hắn nhìn thấy một điểm đen, dật
dờ trên sóng nước. Ðang muốn tri hô cầu cứu, chợt hắn
nhìn kỹ thì đó chỉ là một bè rác mà tàu biển thải ra,
nhìn xa, tưởng là một người sắp chìm. Hắn hiểu rằng
tiếng kêu trên sông Seine chưa bao giờ thoát khỏi hắn, dù
bị sóng nước cuốn đi, đêm ấy, nó đã xuôi dòng, qua ngả
cửa sông ra biển Manche, rồi hòa cùng nước biển đến với
đại dương và thế giới, nhân loại. Hắn hiểu là không
bao giờ hắn có thể lành bệnh. Phải cúi đầu nhận tội.
Clamence đi đến kết luận: Chúng ta không thể xác quyết sự
vô tội cho bất cứ ai, nhưng ngược lại chúng ta có thể
quả quyết là mọi người đều có tội. (trang 92-93)
Dante đã thần tình bịa ra một thứ thiên thần trung
lập (ange neutre) giữa Thượng Ðế và Ác Quỷ. Con người
phải chăng là loại thiên thần trung gian cưu mang trong lòng
cả hai thái cực: Thượng Ðế và Ác Qủy?
Từ đó tất cả mọi phương tiện để thoát khỏi
"chính mình" đều vô hiệu: từ thú tội đến nhận tội,
dấn thân vào tội lỗi, sa đọa đều vô ích. Cuối cùng,
Clamence bỏ Paris để đến Amsterdam, làm một việc không kém
mờ ám khác để kiếm sống: cố vấn pháp luật cho những
tay anh chị tứ chiếng giang hồ, trôi dạt đến bờ biển
Bắc mờ sương và ám khói này.
Clamence trở thành ông tòa xám hối (juge pénitent).
*
Tại sao J.B. Clamence trở thành "ông tòa xám hối"? Ðây
là lý do: "Bởi vì người ta không thể kết tội kẻ khác
mà không kết tội chính mình, phải tra vấn tội mình trước
khi phán xét kẻ khác. Bởi vì tất cả mọi ông tòa rồi cuối
cùng cũng phải qua cầu xám hối, vì vậy, phải đi con đường
ngược lại, làm nghề xám hối trước khi trở thành quan tòa."
(trang 116)
Và Clamence giải thích thủ thuật của mình: Hắn hành
nghề ông tòa xám hối ở quán rượu Mexico-City này: kể tội
mình cho bất cứ ai muốn nghe, gia giảm câu chuyện cho hợp
nhĩ người nghe. Hắn tạo ra một chân dung vừa cá biệt vừa
gần gụi mọi người. Hắn giơ bức chân dung ấy lên: Tôi
đây. Nhưng đồng thời những kẻ nghe hắn cũng nhìn thấy
ở đó một phần của chính mình.
Ở trang cuối, Clamence đảo ngược phương trình. "Hãy
thú nhận đi, có phải ngài thấy bớt hài lòng về mình hơn,
sau năm ngày nghe chuyện của tôi. Tôi biết, chúng ta cùng một
sòng [...]. Vậy ngài làm ơn kể cho tôi biết chuyện gì đã
xẩy ra trên cầu sông Seine đêm nọ khiến ngài đã không liều
mình cứu người thiếu phụ ấy [...] Nhưng yên trí, bây giờ
quá muộn rồi, bao giờ cũng quá muộn. May thay!"
Clamence là một người vừa thời đại, vừa muôn thuở.
Hắn biết mình đóng kịch, đóng vai bi kịch của kẻ hai mặt.
Tất cả những gì "hiện hữu", "thấy được", chỉ là một
hiện thực lừa dối. "Quan tòa liêm khiết", "anh hùng cứu
khốn phò nguy" thật không? Hay đằng sau bình phong là một
bộ mặt khác? Một kẻ sát nhân? Một tay hèn hạ? Qua Clamence
mọi người soi thấy bóng mình. Nhìn lại từng chi tiết xẩy
ra trong đời, nhìn lại từng vi ti huyết quản, bên cạnh dòng
trong, hẳn có chẩy xuôi một dòng đục. Thế nhân, yêu mình
trước khi yêu người, thì cũng thử xét mình trước khi xét
người.
Bên cạnh Meursault là "kẻ xa lạ" với mình, với người.
Kẻ ấy luôn luôn lập đi lập lại "tôi không biết". Bên
cạnh bác sĩ Rieux, "cứu nhân độ thế", một lòng tẩy trừ
nọc độc dịch hạch, Clamence hiện ra như một thứ phản
đề: Hắn biết quá rõ về mình, về người, kể cả những
người chuyên hy sinh cho những "lý tưởng cao thượng".
Camus như muốn "sửa sai" những nhân vật xuất hiện
trước. Ðối diện với Meursault một kẻ sát nhân "vô tội",
hắn, Clamence, một kẻ không cầm súng nhưng cũng giết người.
Trực diện với bác sĩ Rieux cứu người, hắn, Clamence dội
nước cường toan vào lòng người, làm ô nhiễm những "tâm
hồn vô tội" qua tự truyện của hắn.
La chute như một tiếng rơi, quỵ ngã, như là trụy
lạc, sa đọa. Trước hết là tiếng thân người rớt xuống
nước, là sự quỵ ngã trong trụy lạc của Clamence, kẻ còn
mang tên Jean Baptiste, người tiên tri thiên mệnh của Chúa.
La chute phải chăng là tiếng vọng sau cùng của Camus về nỗi
đau không cứu được của loài người?
Vẫn trong lời vĩnh biệt Camus, Sartre
cho rằng La chute là cuốn sách hay nhất của Camus và
cũng được ít người hiểu nhất. Lời Sartre chứng từ cho
nỗi cô đơn, lạc khuất của Sartre, của Camus, trong tình bạn.
Chứng từ "muộn quá, xa quá..." trong tình người.
Trả lời Sartre, La chute vang
lên những ảo ảnh cuối cùng về sự cô đơn và bất hạnh.
Ở đâu bắt đầu lời sám hối? Ðâu là lời buộc tội?
Ðiều chắc chắn là nỗi đau nhân sinh chưa bao giờ thoát
khỏi Camus, con người và tác phẩm, thời còn sống cũng như
thời đã khuất.
Paris 1/2001
Thụy Khuê
Chú thích:
(1) Trần Thiện Ðạo dịch
(2) Trần Thiện Ðạo dịch
(3) absinthe
(4) Ðiều đáng chú ý là lời tuyên ngôn này cũng na ná
giống các khẩu hiệu của đảng Cộng sản: Thánh hóa lãnh
tụ và Ðảng. Không biết đảng nào đã đạo văn đảng nào?
(5) cả hai bài của Sartre và Camus đều đăng trong Les Temps
Modernes, số 82, tháng 8/1852
(6) tác phẩm của Sartre.
(7) Trần Thiện Ðạo dịch