Hội Tam Điểm

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Biểu tượng thước vuông góc và compa của hội Tam Điểm
Một thành viên Ottoman trong thế kỷ 20

Thuật ngữ Hội Tam Điểm (tiếng Anh: Freemasonry; tiếng Pháp: Franc-maçonnerie, nghĩa là "Nền tảng tự do") dùng để chỉ một tập hợp những hiện tượng lịch sử và xã hội rất khác nhau tạo dựng từ một môi trường hội nhập mà việc tuyển chọn thành viên dựa theo nguyên tắc bổ sung[1] và các nghi lễ gia nhập có liên hệ tới những ẩn dụ về người thợ xây đá.

Tên gọi trong tiếng Việt của hội này là "Tam Điểm" được giải thích là do các hội viên người Pháp khi viết thư cho nhau thường gọi nhau là Sư huynh/Sư đệ (frère), hay Đại Sư phụ (maître), viết tắt F hay M và thêm vào phía sau 3 chấm như 3 đỉnh hình tam giác vuông cân.

Lịch sử về Hội chưa thật sự rõ ràng, người ta cho rằng Hội đã xuất hiện vào cuối thế kỷ 16Scotland, sau đó là Anh, rồi lan ra các quốc gia khác. Thay đổi theo từng thời kỳ và theo từng lãnh thổ, Hội Tam điểm tự mô tả mình như một "hiệp hội những người thông thái và bác ái", một "hệ thống luân lý miêu tả bằng các biểu tượng" hay một "bí tích gia nhập".

Hội Tam điểm truyền bá một lối giáo dục có tính bí truyền, tiên phong sử dụng những biểu tượng và nghi lễ. Nó khuyến khích thành viên hành động vì sự tiến bộ nhân loại, nhưng để cho mỗi thành viên lựa chọn cách để thực hành điều đó.[2] Hoạt động từ thiện là một trong những phương thức hành động của họ.[3] Tôn chỉ này mang tính toàn thế giới bất chấp sự thực hành và cách thức tổ chức của Hội là rất khác nhau tùy theo mỗi quốc gia và mỗi thời kỳ. Hội tập hợp những người ở nhiều quốc gia khác nhau trên thế giới muốn hiến thân cho sự vươn lên về phương diện tinh thần và luân lý. Hội phát triển một số lượng lớn các nghi lễ và biểu tượng mà không phải luôn luôn được thông hiểu giữa các thành viên.

Lịch sử[sửa | sửa mã nguồn]

Sử liệu về Hội Tam Điểm[sửa | sửa mã nguồn]

Cho đến giữa thế kỷ 20, lịch sử Hội Tam Điểm vẫn bị loại khỏi nền giáo dục lịch sử hàn lâm[4]. Những người ủng hộ lẫn chống đối Hội Tam điểm đã đưa ra rất nhiều luận chứng đối nghịch nhau, hoặc đôi khi trùng nhau thì lại sai, một ví dụ điển hình là vào cuối thế kỷ 19 đã lưu truyền một huyền thoại phổ biến cho rằng chính Hội Tam điểm đã đứng sau cuộc Cách mạng Pháp năm 1789.

Tuy nhiên về sau nghiên cứu lịch sử Hội Tam điểm đã phát triển mạnh, tách ra thành một ngành riêng(tiếng Pháp: maçonnologie), bao gồm các nghiên cứu rộng rãi về một thế giới văn hóa và trí thức xoay quanh Hội Tam Điểm. Nó chủ yếu đề cập tới các hoạt động cá nhân mà bộc lộ trí tưởng tượng và những quan điểm rất đa dạng của các hội viên Tam Điểm hơn là cố xác định một nhận thức luận khắt khe nào đó; hoặc phức tạp hơn, liên quan tới cuộc đấu tranh giữa các quan điểm và giữa các hội đoàn.

Việc nghiên cứu này có một lợi thế là số lượng sử liệu phong phú, bao gồm các văn bản (thư từ trao đổi, bản thảo, văn bằng, tranh khắc kẽm, tranh biếm họa, bài báo, v.v.), các vật nghi thức (bàn tam điểm, bàn của các hội quán, đĩa và huân chương tưởng niệm) cùng các đồ vật thông thường (đồng hồ, tẩu thuốc, hộp thuốc, v.v.) được trưng bày rộng rãi trong nhiều bảo tàng và các triển lãm thường xuyên[4].

Nguồn gốc theo huyền thoại[sửa | sửa mã nguồn]

Mặc dù các cơ sở đầu tiên có lẽ đã xuất hiện ở Scotland vào cuối thế kỷ 16, Hội Tam điểm vẫn thường thêm vào nguồn gốc lịch sử một nguồn gốc cổ xưa hơn mang tính huyền thoại và biểu tượng. Họ định vị nguồn gốc của mình trong thời gian dựa vào nghệ thuật xây cất. Trong giai đoạn mà ngành cổ sinh vật học còn chưa phát triển, lẽ tự nhiên họ coi nguyên khởi của hội đã xuất hiện từ thời kỳ Adam (con người đầu tiên, theo quan điểm hồi đó), hoặc Noah (người xây dựng thuyền Ark vĩ đại trong truyền thuyết Do Thái – Cơ đốc giáo), nhưng phổ biến hơn cả là thời kỳ xây dựng Đền thờ Jerusalem tức Đền Salomon bởi kiến trúc sư Hiram Abiff.

Xuất hiện khoảng năm 1390, Bản thảo Regius mô tả các thông lệ của hội Tam điểm đã xác lập một cách tượng trưng sự liên hiệp giữa họ dưới sự bảo hộ của EuclidPythagoras những ông tổ của hình học, và dưới sự bảo trợ của vua Athelstan nước Anh[5].

Năm 1736 ở Pháp, hiệp sĩ Andrew Michael Ramsay đã liên hệ Hội Tam Điểm với lịch sử các Kỵ sĩ Thập tự. Những người khác ở Anh và Pháp, muộn hơn một chút, đã biến đổi nguồn tham khảo này sang một nguồn có tính biểu tượng liên hệ với Thánh chế La Mã hoặc với Hiệp sĩ Đền Thánh.

Sau việc ấn hành ở Pháp cuốn Séthos của giám mục Jean Terrasson năm 1731 và sau đó là việc tái khám phá Ai Cập cổ đại của người phương Tây, một số nghi lễ Hội Tam Điểm cũng dời nguồn gốc biểu trưng về thời kỳ xây dựng các Kim Tự Tháp[6].

Cuối cùng vào giữa thế kỷ 19, với việc khám phá lại các di sản của thời Trung Cổ, huyền thoại Hội Tam Điểm được chuyển dời và tăng cường bằng những liên hệ với việc xây dựng các nhà thờ.

Tóm lại, sau tất cả những chỉnh sửa trên là một huyền thoại về Hội luôn luôn được đặt dưới sự bảo trợ có tính biểu tượng của tất cả những gì thúc đẩy sự tiến bộ, trong suốt lịch sử, nghệ thuật xây dựng và những giá trị mà nó gợi lên.

Thành lập những cơ sở đầu tiên[sửa | sửa mã nguồn]

Một hội quán tam điểm (tiếng Anh: lodge, tiếng Pháp: loge) là cơ sở địa phương của Hội Tam Điểm, thông thường tập hợp khoảng vài chục hội viên.

Hội quán tam điểm cổ nhất mà người ta biết được đã được tổ chức như một phường hội riêng rẽ của thợ xây nhà nguyện Mary ở Edinburgh dưới sự lãnh đạo của William St Clair[7]. Phần lớn các cơ sở riêng lẻ đầu tiên của hội đều ở Scotland và tuân theo các Điều khoản Shaw. Tất cả đều đòi hỏi quyền tự trị và thực hành:

Cả hai nghi lễ này không phải là đặc biệt, trái lại, khá tương tự với những nghi lễ của các phường hội khác, như hội "Người làm vườn tự do" (Free Gardeners)[8]. Tuy nhiên nhờ vào uy tín của nghề thợ nề trong giai đoạn ấy, các nghi lễ này nhanh chóng trở nên thông dụng trong hàng ngũ của họ, và dần dần đã có những quý tộc và tư sản tham gia vào hội, số này sau khi gia nhập tiếp tục hoạt động nhưng thường ít tham gia các buổi họp ở hội quán.

Gần cuối thế kỷ 17, đã có khoảng ba chục hội quán ở Anh. Ngài Robert Moray gia nhập ở Newcastle năm 1641 và nhà bác học nổi tiếng Elias Ashmole ở Warringtion, Lancashire năm 1646. Ashmole viết trong nhật ký rằng ông vẫn liên tục quan tâm tới Hội Tam Điểm nhưng phải hai mươi năm sau mới trở lại hội quán. Cho tới khoảng thời gian này các cơ sở hội ở Anh vẫn chỉ tập hợp chủ yếu các thị dân trung lưu, các thợ thủ công và tiểu thương. Chúng đã hầu như không dính dáng tới nghề thợ nề nữa và có liên hệ với các tổ chức tương tự như Free Gardeners hay Oddfellows. Tôn chỉ chủ yếu của nó là lòng từ thiện và tinh thần tương thân tương ái, trong một thời kỳ mà chưa có những bảo trợ xã hội công cộng. Nó giúp đỡ những thành viên bị ốm đau hay mất việc làm, lo việc đám tang của các thành viên hoặc nếu cần thiết chăm sóc cho vợ góa con côi của họ.

Cách thức cụ thể các hội quán Tam Điểm thực thụ (gọi là tư biện – speculative) tách khỏi các phường hội nghề nghiệp (operative) ra sao còn là vấn đề gây nhiều tranh cãi giữa các chuyên gia nghiên cứu Hội Tam Điểm. Một giả thuyết, gọi là lý thuyết chuyển vị (theory of transition) theo đó quá trình chuyển hóa diễn ra từ từ ở Anh trong suốt thế kỷ 17, hiện nay được ít sử gia ủng hộ. Dường như vào thời kỳ chiến tranh với nước Anh, một số phường hội thợ nề ở Scotland đã thu nhận những thành viên ở ngoài ngành nghề của mình, đó là những thành viên danh dự và hầu như không tham dự các cuộc họp. Muộn hơn một chút, vào nửa cuối thế kỷ 17, nhiều quý tộc Scotland đã tham gia vào những hội quán mà trong đó các thành viên thợ nề là rất hiếm[9]. Cũng thời kỳ đó ở Anh, các phường hội thợ nề đã không còn. Mối liên hệ giữa hai loại hội quán do đó có thể đã được thiết lập thông qua các hội hữu ái, cùng với ảnh hưởng của các quý tộc Scotland theo phái Jacobite[9] rồi sau đó là các trí thức như Robert Moray, Elias Ashmore hay James Anderson, những người gia nhập những hội quán gốc Scotland nhưng hoạt động ở Anh[10].

Thành lập các Đại hội quán[sửa | sửa mã nguồn]

Quán rượu "The Goose and Gridiron", ở Luân Đôn.

Một Đại hội quán (tiếng Anh: Grand Lodge) là một tập hợp nhiều hội quán (lodge).

Ngày 24 tháng 6 năm 1717, ngày lễ thánh St Jean, bốn hội quán ở London ("Ngỗng và Món Nướng", "Cốc Vại và Nho", "Quả Táo" và "Vương Miện") đã họp ở quán rượu "The Goose and Gridiron" lập nên Đại hội quán đầu tiên, "Đại hội quán của London và Westminster"[11], sau đổi tên thành Đại hội quán Anh (Grand Lodge of England).

Nhóm này sau đó được gọi, một cách không chính thức, là những người hiện đại (The Moderns). Họ đề cao bản Hiến chương Anderson ban hành tháng 1 năm 1723 soạn thảo bởi thầy tu dòng Trưởng Lão người Scotland James Anderson với sự giúp đỡ của thầy tu, nhà khoa học theo Anh giáo John Theophilus Desaguliers, đồng thời tìm cách tổng hợp nghi lễ Nghĩa vụ cổ xưa với nghi lễ Lời Tam điểm thành một nghi lễ rộng rãi hơn trong quan niệm về "tôn giáo tự nhiên" [12] vốn đóng khung trong sự dẫn giải về Tam Vị Thánh Thể[13].

Bảng các hội quán của Đại hội quán Luân Đôn khoảng năm 1735.

Một phần lớn nhờ việc thành lập Đại hội quán ở Anh mà sau đó tổ chức Hội Tam Điểm lan ra khắp lục địa châu Âu hai mươi năm sau đó, rồi dần dần ảnh hưởng tới các thuộc địa của các nước châu Âu trên thế giới. Các hội quán đáng chú ý đã được thiết lập ở Nga (1717), Bỉ (1721), Pháp (1725), Tây Ban Nha (1728), Italia (1733), Đức (1736))[14]. Ở Pháp, Italia và một mức độ thấp hơn ở các quốc gia châu Âu khác, tồn tại những hội quán độc lập với Đại hội quán ở Anh, do một số quý tộc Jacobite người Scotland lưu đày thành lập. Các Đại hội quán xuất hiện sau đó: ở Ireland (1725), Scotland (1736), Pháp (1738).

Vài năm sau, tập hợp xung quanh hội quán York và sau đó là những hội quán London khác, một Đại hội quán nữa ra đời ở Anh, gọi là "Đại hội quán Tam điểm cổ điển" (Antient Grand Lodge of England), đối lập với Đại hội quán trước. Nó đề cao bản Hiến chương Laurence Dermott (1751) và tìm cách lan tỏa ảnh hưởng trong nước lẫn ngoài nước Anh, nhất là ở Bắc Mỹ. Cuộc cạnh tranh giữa hai phái (Tân phái và Cựu phái – The Moderns and The Ancients) kéo dài suốt nửa sau thế kỷ 18.

Trong thời kỳ cuộc Chiến tranh Napoleon, hai Đại hội quán Anh đã hợp nhất, vào năm 1813, thành một tổ chức gọi là "Đại hội quán Anh thống nhất". Trong khi đó ở Pháp, Hoàng đế Napoleon I áp đặt sự tái tổ chức các chi hội trong một tổ chức gọi là "Grand Orient de France" với định hướng gần gũi với Cựu phái.

Sự phát triển các nghi lễ tam điểm khác nhau[sửa | sửa mã nguồn]

Một nghi lễ tam điểm là một tập hợp những nghi thức và lễ bái tam điểm.

Vào thế ký 17, các nghi thức tam điểm, đơn giản hơn nhiều những thế kỷ sau này, thường không được chép lại và càng không được in ra do đó ngày nay người ta hầu như không còn biết đến chúng nữa ngoại trừ qua một số rất ít những ghi chép và những lời tiết lộ. Việc nghiên cứu các tài liệu có được cho thấy những nghi lễ này đã biến đổi khá nhiều theo thời gian[15].

Đĩa sứ Tam Điểm
Pháp, Bản mẫu:S-

Trong thế kỷ 18, với việc tái tổ chức thành các Đại hội quán, cả Cựu phái lẫn Tân phái đều thực hiện các nghi thức mới tương tự cho nhau, chỉ có vài điểm khác biệt đáng kể như việc đặt các vật biểu trưng, cách thức truyền các mật ngữ hay sự dính líu nhiều hay ít tới tôn giáo Cơ đốc.

Tuy nhiên, từ những năm 1740, người ta nhận thấy những sự phân kỳ mới, bên cạnh những nghi thức của ba cấp độ truyền thống, dưới hình thức hàng trăm các cấp độ bổ sung gọi là cấp độ cao mà nhiều trong số đó chỉ là những biến thể của nhau, hoặc chúng chỉ là những dự thảo mà chưa bao giờ được thực hành. Sự nhân lên các nghi thức tam điểm này đã làm nảy ra những ý kiến phải chuẩn hóa chúng và nhóm lại thành những bộ nghi thức mạch lạc và ổn định: những nghi lễ tam điểm. Các nghi lễ phổ biến nhất bao gồm Nghi lễ thi đua (tiếng Pháp: Rite émulation), Nghi lễ Scotland cổ xưa, Nghi lễ York, Nghi lễ Pháp. Gần một chục các nghi lễ khác cũng được cử hành tương đối rộng rãi trên thế giới. Sự khác nhau giữa tất cả các nghi lễ này thường chỉ là rất ít ở ba cấp độ cơ bản và chỉ trở nên đáng kể ở các cấp độ bổ sung mà đôi khi được gọi là cao cấp.

Tổ chức[sửa | sửa mã nguồn]

Hội Tam Điểm được tổ chức thành các hội quán (loge, lodge). Đó là các nhóm cơ sở và nắm quyền lực chủ yếu của hội, nhất là quyền tuyển lựa thành viên mới. Các hội quán hợp thành các hội phái (tiếng Pháp: obédience, tức các Đại hội quán - Grand Lodge hoặc ở Pháp và vùng ảnh hưởng là các Grand Orient). Trên hết, thuật ngữ, dòng hội Tam Điểm (tiếng Pháp: Ordre maçonnique) để chỉ một ý tưởng về một hội Tam Điểm toàn cầu(chứ không phải một cấp tổ chức thực sự). Kiểu mẫu tổ chức này của hội tam điểm được vay mượn bởi rất nhiều tổ chức phi tam điểm, nhất là ở Anh và Hoa Kỳ, như những tổ chức tương tế xã hội hoặc B'nai B'rith.

Hai nhánh chính[sửa | sửa mã nguồn]

Một hội viên Anh ở thế kỷ 19

Dựa trên sự khác nhau về nghi thức tam điểm giữa các hội phái mà người ta có thể nhìn nhận Hội Tam Điểm bao gồm hai nhánh chính:

  • Nhánh truyền thống cũng là nhóm phổ biến hơn trên thế giới, tập hợp hầu hết các hội phái kết nạp một cách thường xuyên.
  • Nhánh tự do không áp đặt bất kỳ niềm tin cụ thể và chấp nhận vô thần.

Hội chống lại hội tam điểm[sửa | sửa mã nguồn]

Hội chống lại hội tam điểm có định nghĩa là "đối lập với hội tam điểm",[16][17] nhưng không có bất cứ một phong trào chống lại hội tam điểm một cách đồng nhất. Hội chống lại hội tam điểm bao gồm những lời chỉ trích khác nhau từ các nhóm khác nhau (và thường không tương thích) là những nhóm chống đối hội tam điểm dưới một hình thức nào đó. Các phe phái chỉ trích hội tam điểm bao gồm các nhóm tôn giáo, các nhóm chính trị, và các thuyết âm mưu.

Sự chống đối tôn giáo[sửa | sửa mã nguồn]

Hội tam điểm đã thu hút sự chỉ trích từ các quốc gia thần quyền và những tổ chức của các tôn giáo vì hội tam điểm đã có ý muốn cạnh tranh với các hệ tư tưởng tôn giáo, hoặc cho là có mục đích mang đến sự rối loạn chia rẽ trong nội bộ cộng đồng giới chức sắc lãnh đạo tôn giáo và những người giáo dân, và từ lâu hội tam điểm cũng là đối tượng được đề cập đến trong các lý thuyết âm mưu, mà khẳng định rằng hội tam điểm là một hội kín huyền bí và mang đầy quyền lực độc ác.[18]

Hồi giáo và hội tam điểm[sửa | sửa mã nguồn]

Người Do Thái bị coi là có dính líu với hội tam điểm theo góc nhìn của thế giới Hồi Giáo

Rất nhiều lý luận đến từ thế giới Hồi Giáo mang nội dung chống đối hội tam điểm thường đi kèm với chủ nghĩa bài Do Thái và ý thực hệ đấu tranh chống lại chủ nghĩa phục quốc của người do thái, và còn có cả những lời chỉ trích kết nối hội tam điểm với Al-Masih ad-Dajjal (đấng cứu thế giả mạo)[19][20]. Một số tín đồ hồi giáo có tư tưởng chống lại hội tam điểm, thì cho rằng mục đích chính của hội tam điểm là mang lại những lợi ích và lợi nhuận cho những người Do Thái đang sinh sống ở khắp mọi nơi trên thế giới và mục tiêu chính của hội tam điểm là giúp đỡ người do thái trong sứ mệnh hủy diệt Nhà thờ Hồi giáo Al-Aqsa để tái xây dựng lại Đền SolomonJerusalem[21]. Trong điều 28 của Hiệp ước, Hamas tuyên bố rằng Hội tam điểm, Rotary International và các nhóm tương tự khác "làm việc vì lợi ích của chủ nghĩa phục quốc của người Do Thái và tuân phục theo các hướng dẫn của chủ nghĩa đó..."[22]

Rất nhiều quốc gia với số lượng người Hồi Giáo là đa số, những quốc gia này không cho phép sự thành lập cơ quan tổ chức của hội tam điểm trong lãnh thổ đất nước của họ. Tuy nhiên, những quốc gia Hồi giáo khác như Thổ Nhĩ Kỳ và Morocco đã thành lập các Grand Lodges[23], và trong khi đó ở Malaysia [24][25]Lebanon[26] có các khu Grand Lodges hoạt động theo mệnh lệnh của cơ quan tổ chức Grand Lodge.

Ở Pakistan vào năm 1972, Zulfikar Ali Bhutto, sau đó làm Thủ tướng Pakistan, đã đưa ra lệnh cấm về hội tam điểm. Những tòa nhà Lodge bị chính phủ Pakistan tịch thu.[27]

Tư tưởng chính trị đối lập hội Tam Điểm[sửa | sửa mã nguồn]

Năm 1799, Hội Tam Điểm Anh quốc gần như bị đình chỉ hoạt động do tuyên bố của Quốc hội. Sau Cuộc Cách mạng Pháp, Đạo luật Các Tổ chức Bất hợp pháp đã cấm bất kỳ cuộc hội họp nào của các nhóm và yêu cầu các thành viên của họ phải tuyên thệ hay buộc phải làm nghĩa vụ phát giác và báo cáo cho các cơ quan chính phủ.[28]

Thành viên[sửa | sửa mã nguồn]

Bản phân phối số hội viên Tam Điểm trên thế giới năm 1992: 

Quốc gia  Số hội viên
Anh 7 000 000
Mỹ   5 000 000
Úc 2 000 000
Canada 193 000
Brasil 140 000
Pháp 85 000
Chile 60 000
Ireland 55 000
Nam Phi 50 000
New Zealand 35 000
Thụy Điển 31 000
México 30 000
Ý 24 000
Đan Mạch 20 000
Đức 20 000
Na Uy 16 000
Philippines 15 000
Hy Lạp 13 500
Bỉ 9 000
Argentina 7 150
Hà Lan 7 000
Peru 5 400
Nhật Bản 4 000
Thụy Sĩ 4 000
Bồ Đào Nha 3 500
Thổ Nhĩ Kỳ 3 000
Israel 3 000
Phần Lan 1 500
Bolivie 1 400
Tây Ban Nha 1 000 

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Xem (Hivert Messeca 2008, tr. 306-311)
  2. ^ Xem site de la Grande Loge de Belgique Lưu trữ 2009-08-31 tại Wayback Machine (truy cập 02/09/2011)
  3. ^ Đặc biệt đúng với hội Tam Điểm ở khu vực nói tiếng Anh, xem Masonic Medical Centre for Children (truy cập 02/09/2011)
  4. ^ a b (Dachez 2003, tr. 8-11)
  5. ^ Manuscrit régius (truy cập 02/09/2011)
  6. ^ "Cuốn 'Séthos' trước hết là một tác phẩm hư cấu, trừ sự vay mượn từ Diodor xứ Sicilia và các tài liệu khác, và các mô tả liên quan đến các sự kiện khác nhau có liên quan đến những bí mật về Isis, đã thu hút được trí tưởng tượng của các độc giả của thế kỷ 18", James Stevens Curl, giáo sư đại học Montfort, Leicester, các chủ đề trang trí Ai Cập và tam điểm trong L'Égyptomanie à l'épreuve de l'archéologie, Louvre, éd. du Gram, 1996, p. 349
  7. ^ (Stevenson 1999)
  8. ^ Hội Tam Điểm, tức Freemasonry có thể hiểu là hội nghề Thợ nề tự do
  9. ^ a b (Kervella 2009, tr. 31-57)
  10. ^ Roger Dachez, Les origines de la maçonnerie spéculative, état des théories actuelles, trên tạp chí "Renaissance traditionnelle", xem trực tuyến Lưu trữ 2008-05-16 tại Wayback Machine (không truy cập được - 02/09/2011)
  11. ^ (Dachez 2003, tr. 44)
  12. ^ (Négrier 2005, tr. 75)
  13. ^ (điều Rite du Mot de maçon)
  14. ^ (Mitterrand et al. 1992, tr. 934c)
  15. ^ Xem những công bố trên trang web này (truy cập 02/09/2011)
  16. ^ "Anti-Masonry" – Oxford English Dictionary (Compact Edition), Oxford University Press, 1979, p.369
  17. ^ “Antimasonry – Definition of Antimasonry by Webster Dictionary”. Webster-dictionary.net. Truy cập ngày 8 tháng 9 năm 2011.
  18. ^ Morris, S. Brent; The Complete Idiot's Guide to Freemasonry, Alpha books, 2006, p,204.
  19. ^ Sands, David R (ngày 1 tháng 7 năm 2004). “Saddam to be formally charged”. The Washington Times. Truy cập ngày 18 tháng 6 năm 2006.
  20. ^ Prescott, Andrew. The Study of Freemasonry as a New Academic Discipline. tr. 13–14. Truy cập ngày 18 tháng 12 năm 2008.
  21. ^ "Can a Muslim be a Freemason" Lưu trữ 2014-03-29 tại Wayback Machine Wake up from your slumber, 2007, retrieved ngày 8 tháng 1 năm 2014
  22. ^ “Hamas Covenant 1988”. Avalon.law.yale.edu. ngày 18 tháng 8 năm 1988. Truy cập ngày 15 tháng 1 năm 2011.
  23. ^ Leyiktez, Celil. "Freemasonry in the Islamic World", Pietre-Stones Retrieved ngày 2 tháng 10 năm 2007.
  24. ^ "Home Page", District Grand Lodge of the Eastern Archipelago Lưu trữ 2014-01-09 tại Wayback Machine, retrieved ngày 9 tháng 1 năm 2014
  25. ^ “Mystery unveiled”. The Star Online. ngày 17 tháng 4 năm 2005. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 2 năm 2014. Truy cập ngày 13 tháng 2 năm 2014.
  26. ^ Freemasonry in Lebanon Lưu trữ 2013-08-22 tại Archive.today Lodges linked to the Grand Lodge of Scotland, retrieved ngày 22 tháng 8 năm 2013
  27. ^ Peerzada Salman, "Masonic Mystique", December 2009, Dawn.com (News site), retrieved ngày 3 tháng 1 năm 2012
  28. ^ Andrew Prescott, "The Unlawful Societies Act", First published in M. D. J. Scanlan, ed., The Social Impact of Freemasonry on the Modern Western World, The Canonbury Papers I (London: Canonbury Masonic Research Centre, 2002), pp. 116–134, Pietre-Stones website, retrieved ngày 9 tháng 1 năm 2014

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]