Liễu Kính Ngôn
Liễu Kính Ngôn (chữ Hán:
Liễu Kính Ngôn | |
---|---|
Hoàng hậu Nam Trần | |
Hoàng hậu Nam Trần | |
Nhiệm kỳ 568–582 | |
Quân chủ | Trần Tuyên Đế |
Tiền nhiệm | Vương Thiếu Cơ |
Kế nhiệm | Thẩm Vụ Hoa |
Hoàng thái hậu Nam Trần | |
Nhiệm kỳ 582–589 | |
Quân chủ | Trần Hậu Chủ |
Tiền nhiệm | Chương Yêu Nhi |
Kế nhiệm | cuối cùng |
Thông tin cá nhân | |
Sinh | 534 |
Mất | 616 |
Giới tính | nữ |
Gia quyến | |
Thân phụ | Liễu Yển |
Thân mẫu | Tiêu Ngọc Linh |
Phối ngẫu | Trần Tuyên Đế |
Hậu duệ | Trần Thúc Bảo |
Gia tộc | họ Liễu Hà Đông |
Nghề nghiệp | chính khách |
Tiểu sử
sửaLiễu Kính Ngôn sinh năm 534. Phụ thân là Liễu Uyển (
Liễu Uyển xuất thân quan lại với ông nội là Liễu Thế Long (
Khi phản tướng Hầu Cảnh tấn công thành Kiến Khang năm 548 và chiếm giữ thành năm 549, Liễu Kính Ngôn và Liễu Phán đến Giang Lăng[3] nương nhờ người cậu là Tương Đông vương Tiêu Dịch. Tiêu Dịch đối đãi với chị em bà khá tốt.[4]
An Thành vương phi
sửaTháng 11 âm lịch năm 552, Tiêu Dịch xưng đế ở Giang Lăng, tức Lương Nguyên Đế. Nguyên Đế yêu cầu Trần Bá Tiên gửi con trai mình là Trần Xương và cháu là Trần Húc đến Giang Lăng, kinh đô mới làm con tin
Tại đây, Nguyên Đế đã ban hôn cho Liễu Kính Ngôn với Trần Húc. Trước đó, Trần Húc đã có vợ chính là Tiền thị, xuất thân thường dân, khi còn ở Nghĩa Hưng (
Năm 557, Trần Bá Tiên kết thúc nhà Lương, thành lập nhà Trần. Trong khi Trần Húc đang bị Tây Ngụy giam giữ, anh trai ông là Trần Văn Đế đã phong tước hiệu của ông là An Thành vương. Năm 560, chính quyền kế thừa của Tây Ngụy- Bắc Chu- bắt đầu thương lượng với Trần, đề xuất trao trả Trần Húc. Năm 562, sau khi Trần Văn Đế trao thành Lỗ Sơn (魯山)[7] cho Bắc Chu để trao đổi, Trần Húc đã được phép trở về Trần. Ban đầu, Liễu Kính Ngôn và Trần Thúc Bảo chưa được phép trở về, song sau khi có thêm các cuộc thương lượng, họ cũng được trở về Trần. Trần Húc cũng nghênh tiếp nguyên phối Tiền thị đến phủ của mình, song do vương phi Liễu Kính Ngôn có xuất thân danh giá khi là nữ nhi của một công chúa Lương nên vẫn là chính thất, bà giữ tước hiệu An Thành vương phi.[4][8]
Mùa xuân năm 566, Trần Văn Đế lâm bệnh trọng và băng hà. Thái tử Trần Bá Tông đăng cơ kế vị, tức Trần Phế Đế. Mùa đông năm 568, Trần Húc đã ban một chiếu chỉ nhân danh Chương thái hoàng thái hậu, vu cáo và phế truất cháu mình Trần Bá Tông.
Hoàng hậu
sửaTrần Húc đã để trống hoàng vị trong hơn một tháng, song cuối cùng đã đăng cơ vào mùa xuân năm 569, trở thành Trần Tuyên Đế. Ông phong vương phi Liễu Kính Ngôn của mình làm hoàng hậu và lập con cả là Trần Thúc Bảo làm thái tử.[9]
Liễu hoàng hậu được mô tả là xinh đẹp, cao ráo và khiêm nhường. Hiểu rõ rằng Tiền thị là người vợ đầu tiên của Tuyên Đế. Tuy Tiền thị được sắc phong làm Quý phi (
Hoàng thái hậu
sửaĐến mùa xuân năm 582, Tuyên Đế lâm bệnh. Thái tử Trần Thúc Bảo cùng các hoàng đệ là Thủy Hưng vương Trần Thúc Lăng (
Ba ngày sau nỗ lực chính biến, Trần Thúc Bảo đăng cơ trong khi vẫn còn bị thương nặng. Ông tôn Liễu hoàng hậu làm hoàng thái hậu,
Ban đầu, Trần Thúc Bảo vẫn đang quá trình hồi phục sau chấn thương, Liễu thái hậu nhiếp chính với sự hỗ trợ của Trần Thúc Kiên. Sau khi Trần Thúc Bảo hồi phục, Liễu thái hậu trao trả lại quyền lực cho ông.[4][10]
Năm 589, nhà Tùy tiêu diệt nhà Trần. Liễu Kính Ngôn cùng cả hoàng tộc Trần áp giải đến Trường An. Sau đó bà sống tại phía đông thành Lạc Dương. Bà qua đời năm 616 và được an táng tại Lạc Dương chứ không phải với Tuyên Đế.[4]
Chú thích và tham khảo
sửa- ^ Nay là Thượng Nhiêu, Giang Tây
- ^ Có một vài vấn đề về niên đại và sự kiện được mô tả trong Trần thư. Liễu hoàng hậu mất năm 616 (hoặc có thể 615), hưởng thọ 82 tuổi, năm sinh là 534 (hoặc có thể 533), khi bà 8 tuổi năm 542. Tuy nhiên, Liễu Uyển qua đời những năm Đại Bảo (
大寶 ) (550-551) của Lương Giản Văn Đế, khi đó bà 16 hoặc 17 tuổi. Nhưng hầu như không có chứng cớ thuyết phục, Trần thư có thể nhầm lẫn giữa những năm Đại Đồng (大同 ) (535-546) của Lương Vũ Đế với Đại bảo. Trần thư có thể nhầm lẫn giữa về tuổi tác của Liễu hoàng hậu tại thời điểm phụ thân Liễu Uyển qua đời. Theo Lương thư, Liễu Uyển mất năm 550. Xem Lương thư, quyển 21. - ^ Nay là Kinh Châu, Hồ Bắc
- ^ a b c d e f Trần thư, quyển 7.
- ^ Nay là Hồ Châu, Chiết Giang
- ^ Nay là Nam Dương, Hà Nam
- ^ Nay thuộc Vũ Hán, Hồ Bắc
- ^ Tư trị thông giám, quyển 168.
- ^ Tư trị thông giám, quyển 170.
- ^ a b Tư trị thông giám, quyển 175.