Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Fidel Castro”
Không có tóm lược sửa đổi |
Không có tóm lược sửa đổi |
||
Dòng 110: | Dòng 110: | ||
[[Tập tin:Family Tree of Fidel Castro.jpg | nhỏ | [[Gia phả]] nhà Castro.]] |
[[Tập tin:Family Tree of Fidel Castro.jpg | nhỏ | [[Gia phả]] nhà Castro.]] |
||
Fidel Castro sinh ngày [[13 tháng 8]] năm [[1927]]<ref name="CTFTC"/> (một năm trễ hơn trong giấy tờ chính thức) trong một gia đình giàu có tại một nông trang nhỏ mang tên Maracas thuộc thành phố [[Birán]], con không chính thức của một chủ đồn điền trồng [[mía]] giàu có, Ángel Castro Argiz, di dân từ [[Tây Ban Nha]], và người nấu bếp cho ông, bà Lina Ruz González.<ref name="Furiati">Claudia Furiati: ''Fidel Castro: La historia me absolverá.'' S. 48f, Plaza Janés, Barcelona 2003 (spanisch)</ref> Giấy tờ chính thức đầu tiên là một giấy rửa tội ký vào năm [[1935]], với tên là ''Fidel Hipólito Ruz González''. Lúc đó ông lấy họ của mẹ, bởi vì ông là con không chính thức. Sau khi cha ông [[ly dị]] vào năm [[1941]], ông ta đã hối lộ để được một giấy [[rửa tội]] mới cho Fidel. Trong giấy tờ đó ông tên là ''Fidel Ángel Castro Ruz''. Ngày sinh được đổi lại là [[13 tháng 8]] năm [[1926]], để mà Fidel có thể theo học trường Jesuiten ở |
Fidel Castro sinh ngày [[13 tháng 8]] năm [[1927]]<ref name="CTFTC"/> (một năm trễ hơn trong giấy tờ chính thức) trong một gia đình giàu có tại một nông trang nhỏ mang tên Maracas thuộc thành phố [[Birán]], con không chính thức của một chủ đồn điền trồng [[mía]] giàu có, Ángel Castro Argiz, di dân từ [[Tây Ban Nha]], và người nấu bếp cho ông, bà Lina Ruz González.<ref name="Furiati">Claudia Furiati: ''Fidel Castro: La historia me absolverá.'' S. 48f, Plaza Janés, Barcelona 2003 (spanisch)</ref> Giấy tờ chính thức đầu tiên là một giấy rửa tội ký vào năm [[1935]], với tên là ''Fidel Hipólito Ruz González''. Lúc đó ông lấy họ của mẹ, bởi vì ông là con không chính thức. Sau khi cha ông [[ly dị]] vào năm [[1941]], ông ta đã hối lộ để được một giấy [[rửa tội]] mới cho Fidel. Trong giấy tờ đó ông tên là ''Fidel Ángel Castro Ruz''. Ngày sinh được đổi lại là [[13 tháng 8]] năm [[1926]], để mà Fidel có thể theo học trường Jesuiten ở La Habana, bởi vì ông hãy còn nhỏ tuổi. Giấy rửa tội cuối cùng được ký vào tháng 12 năm [[1943]], sau khi cha ông lấy mẹ ông, có tên là ''Fidel Alejandro Castro Ruz'' mà bây giờ vẫn còn được dùng.<ref name="Furiati"/><ref>Michael Zeuske: ''Kuba im 21. Jahrhundert.'' Rotbuch Verlag, 2012, S. 86</ref> |
||
Lúc nhỏ Castro theo học trường [[Dòng Tên]]. Ngay từ năm 1940, khi mới 13 tuổi, ông đã viết một bức thư [[tiếng Anh]] gửi cho [[Tổng thống Mỹ]] [[Franklin Delano Roosevelt]] trình bày về những suy nghĩ của ông về cuộc bầu cử [[tổng thống Mỹ]] (khi đó [[Cuba]] đang nằm dưới "sự bảo hộ" của [[Mỹ]]). |
Lúc nhỏ Castro theo học trường [[Dòng Tên]]. Ngay từ năm 1940, khi mới 13 tuổi, ông đã viết một bức thư [[tiếng Anh]] gửi cho [[Tổng thống Mỹ]] [[Franklin Delano Roosevelt]] trình bày về những suy nghĩ của ông về cuộc bầu cử [[tổng thống Mỹ]] (khi đó [[Cuba]] đang nằm dưới "sự bảo hộ" của [[Mỹ]]). |
||
Dòng 168: | Dòng 168: | ||
Cuộc xâm chiếm được [[Mỹ]] dự định sẽ loại bỏ chính phủ Cuba, nhưng rốt cục chính nó lại giúp Cuba trở nên thân thiết hơn với [[Liên Xô]], một phần là để được bảo vệ trước các sự gây hấn tiếp theo từ phía Mỹ. Từ một người ủng hộ [[chủ nghĩa bình đẳng]] đơn thuần, cuộc tấn công của Mỹ đã khiến Fidel Castro đặt hoàn toàn niềm tin và sự ủng hộ vào [[chủ nghĩa cộng sản]]. |
Cuộc xâm chiếm được [[Mỹ]] dự định sẽ loại bỏ chính phủ Cuba, nhưng rốt cục chính nó lại giúp Cuba trở nên thân thiết hơn với [[Liên Xô]], một phần là để được bảo vệ trước các sự gây hấn tiếp theo từ phía Mỹ. Từ một người ủng hộ [[chủ nghĩa bình đẳng]] đơn thuần, cuộc tấn công của Mỹ đã khiến Fidel Castro đặt hoàn toàn niềm tin và sự ủng hộ vào [[chủ nghĩa cộng sản]]. |
||
Các chiến dịch chống Cuba vẫn được Cục tình báo Mỹ [[CIA]] tiếp tục tiến hành nhiều năm sau đó; nhiều âm mưu [[ám sát]] Fidel Castro và ám sát thành công các quan chức khác; vụ đặt bom năm 1960 (3 [[người Mỹ]] bị giết và 2 bị bắt) và các vụ đánh bom khủng bố nhằm vào khách du lịch năm 1997; vụ đánh bom tàu của [[Pháp]] tại [[cảng |
Các chiến dịch chống Cuba vẫn được Cục tình báo Mỹ [[CIA]] tiếp tục tiến hành nhiều năm sau đó; nhiều âm mưu [[ám sát]] Fidel Castro và ám sát thành công các quan chức khác; vụ đặt bom năm 1960 (3 [[người Mỹ]] bị giết và 2 bị bắt) và các vụ đánh bom khủng bố nhằm vào khách du lịch năm 1997; vụ đánh bom tàu của [[Pháp]] tại [[cảng La Habana]] (ít nhất 75 người chết); vụ tấn công sinh học bằng virus bệnh cúm khiến nửa triệu con lợn bị chết; và vụ đánh bom máy bay chở khách của Cuba (78 người chết) của [[Luis Posada Carriles]] và [[Orlando Bosch]]. Chính Bosch đã được [[tổng thống Mỹ]] [[George W. Bush]] ân xá và hai hung thủ này vẫn tự do tại Mỹ bất chấp việc Mỹ tuyên bố chống chủ nghĩa khủng bố<ref name="alternet.org"/>. |
||
===Xây dựng đất nước=== |
===Xây dựng đất nước=== |
||
Dòng 221: | Dòng 221: | ||
}} |
}} |
||
Chính quyền Cuba điều hành hệ thống [[y tế]] toàn dân và tự gánh trách nhiệm [[tài chính]] và quản lý cho toàn bộ hệ thống. Trước [[Cách mạng Cuba|cách mạng]], [[Cuba]] chỉ có 6.000 [[bác sĩ]], 64% số này làm việc ở [[ |
Chính quyền Cuba điều hành hệ thống [[y tế]] toàn dân và tự gánh trách nhiệm [[tài chính]] và quản lý cho toàn bộ hệ thống. Trước [[Cách mạng Cuba|cách mạng]], [[Cuba]] chỉ có 6.000 [[bác sĩ]], 64% số này làm việc ở [[La Habana]], nơi sinh sống của đại đa số những người giàu có nhất. Fidel Castro đã yêu cầu các bác sĩ phải được phân bổ đều khắp đất nước, đồng thời cho xây dựng ba trường đại học y khoa mới. Bất kỳ hoạt động y tế nào mang tính chất tư nhân để thu [[lợi nhuận]] đều bị Chính phủ Cuba nghiêm cấm. Năm [[1976]], chương trình chăm sóc sức khỏe Cuba được đưa thành điều 50 của [[Hiến pháp Cuba]], theo đó quy định rằng ''"tất cả mọi người được quyền bảo vệ và chăm sóc sức khỏe miễn phí"''. |
||
Một số thống kê về Cuba được tờ Independent của [[Anh]] nêu ra về y tế Cuba vào năm 2006:<ref name=inde>[http://www.independent.co.uk/news/world/americas/the-castropedia-fidels-cuba-in-facts-and-figures-432478.html The Castropedia: Fidel's Cuba in facts and figures | The Independent<!-- Bot generated title -->]</ref> |
Một số thống kê về Cuba được tờ Independent của [[Anh]] nêu ra về y tế Cuba vào năm 2006:<ref name=inde>[http://www.independent.co.uk/news/world/americas/the-castropedia-fidels-cuba-in-facts-and-figures-432478.html The Castropedia: Fidel's Cuba in facts and figures | The Independent<!-- Bot generated title -->]</ref> |
||
Dòng 269: | Dòng 269: | ||
== Đời sống riêng== |
== Đời sống riêng== |
||
Những chi tiết về cuộc sống riêng tư của Castro, đặc biệt mà có dính líu tới những thành viên trong gia đình, ít được biết, bởi vì báo chí nhà nước bị cấm đề cập tới.<ref>{{Chú thích web|tác giả 1=Admservice |url=http://www.latinamericanstudies.org/fidel/castro-family.htm |tiêu đề=Fidel Castro’s Family |nhà xuất bản=Latinamericanstudies.org |ngày tháng=ngày 8 tháng 10 năm 2000 |ngày truy cập=ngày 13 tháng 1 năm 2010}}</ref> Với người vợ đầu tiên, bà Mirta Díaz-Balart (Con gái Bộ trưởng Nội vụ lúc đó), mà ông cưới vào ngày [[11 tháng 10]] năm [[1948]], Castro có một người con trai tên Fidel Ángel "Fidelito" Castro Díaz-Balart, sinh ngày [[1 tháng 9]] năm [[1949]]. Díaz-Balart và Castro [[ly dị]] trong năm [[1955]], sau đó bà cưới Emilio Núñez Blanco. Sau một thời gian cư trú ở [[Madrid]], Díaz-Balart đã trở về [[ |
Những chi tiết về cuộc sống riêng tư của Castro, đặc biệt mà có dính líu tới những thành viên trong gia đình, ít được biết, bởi vì báo chí nhà nước bị cấm đề cập tới.<ref>{{Chú thích web|tác giả 1=Admservice |url=http://www.latinamericanstudies.org/fidel/castro-family.htm |tiêu đề=Fidel Castro’s Family |nhà xuất bản=Latinamericanstudies.org |ngày tháng=ngày 8 tháng 10 năm 2000 |ngày truy cập=ngày 13 tháng 1 năm 2010}}</ref> Với người vợ đầu tiên, bà Mirta Díaz-Balart (Con gái Bộ trưởng Nội vụ lúc đó), mà ông cưới vào ngày [[11 tháng 10]] năm [[1948]], Castro có một người con trai tên Fidel Ángel "Fidelito" Castro Díaz-Balart, sinh ngày [[1 tháng 9]] năm [[1949]]. Díaz-Balart và Castro [[ly dị]] trong năm [[1955]], sau đó bà cưới Emilio Núñez Blanco. Sau một thời gian cư trú ở [[Madrid]], Díaz-Balart đã trở về [[La Habana]] để sống với Fidelito và gia đình ông.<ref>Ann Louise Bardach: ''Cuba Confidential''. p. 67. "One knowledgeable source claims that Mirta returned to Cuba in early 2002 and is now living with Fidelito and his family."</ref> Fidelito lớn lên ở [[Cuba]]; có một thời, ông làm Chủ tịch Ủy ban Năng lực nguyên tử Cuba nhưng sau đó bị cách chức bởi chính cha mình.<ref name="anderson">Jon Lee Anderson, "Castro’s Last Battle: Can the revolution outlive its leader?" The New Yorker, ngày 31 tháng 7 năm 2006. 51.</ref> |
||
Ngoài ra, Fidel có năm người con trai khác với người vợ thứ hai, Dalia Soto del Valle: Antonio, Alejandro, Alexis, Alexander "Alex" and Ángel Castro Soto del Valle.<ref name="anderson"/> Trong khi Fidel ở với Mirta, ông đã ngoại tình với Natalia "Naty" Revuelta Clews, sinh ở |
Ngoài ra, Fidel có năm người con trai khác với người vợ thứ hai, Dalia Soto del Valle: Antonio, Alejandro, Alexis, Alexander "Alex" and Ángel Castro Soto del Valle.<ref name="anderson"/> Trong khi Fidel ở với Mirta, ông đã ngoại tình với Natalia "Naty" Revuelta Clews, sinh ở La Habana vào năm 1925 và đã làm đám cưới với Orlando Fernández, đẻ ra một người con gái tên [[Alina Fernández]].<ref name="anderson"/> Alina rời khỏi [[Cuba]] vào năm [[1993]], hóa trang làm một du khách [[người Tây Ban Nha]],<ref>{{Chú thích web |url=http://www.canada.com/topics/news/world/story.html?id=2ef037b4-5f82-4283-b1fb-2cc9e2442977 |tiêu đề=Cuba’s first family not immune to political rift |ngày truy cập=ngày 10 tháng 8 năm 2006 |họ 1=Boadle |tên 1=Anthony |ngày tháng=ngày 8 tháng 8 năm 2006 |nhà xuất bản=[[Reuters]] |archive-date=2007-10-11 |archive-url=https://web.archive.org/web/20071011191626/http://canada.com/topics/news/world/story.html?id=2ef037b4-5f82-4283-b1fb-2cc9e2442977 |url-status=dead }}</ref> và xin tị nạn ở [[Hoa Kỳ]]. Bà đã chỉ trích chính sách của cha mình.<ref>{{chú thích sách |last=Fernandez |first=Alina | authorlink = Alina Fernandez |title=Castro’s Daughter, An Exile’s Memoir of Cuba |publisher=[[St. Martin’s Press]] |year=1997 |isbn=031224293X}}</ref> Với một phụ nữ khác không được biết tên, ông có một người con trai khác, tên Jorge Ángel Castro. Fidel còn có một người con gái khác, Francisca Pupo (sanh năm 1953) kết quả của một cuộc [[tình một đêm]]. Pupo và chồng bà bây giờ sống ở [[Miami]].<ref name="canf.org">Roberto Duarte {{Chú thích web |url=http://www.canf.org/es/ENSAYOS/2003-dic-09-vida_secreta_del_tirano_castro.htm |ngày truy cập=2009-08-04 |tựa đề=VIDA SECRETA DEL TIRANO CASTRO |archive-date = ngày 10 tháng 12 năm 2006 |archive-url=https://web.archive.org/web/20061210012059/http://www.canf.org/es/ENSAYOS/2003-dic-09-vida_secreta_del_tirano_castro.htm |url-status=dead }}. CANF.org. ngày 29 tháng 10 năm 2003</ref><ref>''Cuba confidential: Love and Vengeance in Miami and Havana'' By [[Ann Louise Bardach]]; Random House, Inc., 2002; ISBN 978-0-375-50489-1</ref> Người viết tiểu sử về Castro, ông [[Robert E. Quirk]] ghi nhận là trong suốt cuộc đời, Fidel thường có quan hệ tình một đêm với các người đàn bà khác vì ông "''không có khả năng để duy trì một quan hệ yêu đương lâu dài với bất cứ người phụ nữ nào.''"<ref>[[#Qui93|Quirk 1993]]. p. 15.</ref><ref>[[#Qui93|Quirk 1993]]. p. 231.</ref> |
||
Em gái của ông, bà Juanita Castro, từng là một nhân viên tình báo Mỹ ([[CIA]]) hoạt động chống lại chính anh em trai mình trước khi chuyển sang sống ở [[Hoa Kỳ]] ngay từ đầu thập niên [[1960]]. Khi bà đi tỵ nạn, đã nói là "''Tôi không thể hờ hững với những gì đang xảy ra trên đất nước tôi. Hai anh em của tôi, Fidel và Raúl đã biến nước tôi thành một nhà tù khổng lồ được bao quanh bởi biển cả. Người dân đang bị trói buộc và hành hạ bởi [[chủ nghĩa cộng sản]] quốc tế''."<ref>{{chú thích báo| url=http://www.time.com/time/magazine/article/0,9171,871241-1,00.html| title=The Bitter Family (page 1 of 2)| work=[[TIME]]| date=ngày 10 tháng 7 năm 1964| access-date=ngày 19 tháng 2 năm 2008| archive-date=2013-08-21| archive-url=https://web.archive.org/web/20130821224354/http://www.time.com/time/magazine/article/0,9171,871241-1,00.html| url-status=dead}}</ref> |
Em gái của ông, bà Juanita Castro, từng là một nhân viên tình báo Mỹ ([[CIA]]) hoạt động chống lại chính anh em trai mình trước khi chuyển sang sống ở [[Hoa Kỳ]] ngay từ đầu thập niên [[1960]]. Khi bà đi tỵ nạn, đã nói là "''Tôi không thể hờ hững với những gì đang xảy ra trên đất nước tôi. Hai anh em của tôi, Fidel và Raúl đã biến nước tôi thành một nhà tù khổng lồ được bao quanh bởi biển cả. Người dân đang bị trói buộc và hành hạ bởi [[chủ nghĩa cộng sản]] quốc tế''."<ref>{{chú thích báo| url=http://www.time.com/time/magazine/article/0,9171,871241-1,00.html| title=The Bitter Family (page 1 of 2)| work=[[TIME]]| date=ngày 10 tháng 7 năm 1964| access-date=ngày 19 tháng 2 năm 2008| archive-date=2013-08-21| archive-url=https://web.archive.org/web/20130821224354/http://www.time.com/time/magazine/article/0,9171,871241-1,00.html| url-status=dead}}</ref> |
Phiên bản lúc 09:30, ngày 11 tháng 5 năm 2023
Fidel Castro | |
---|---|
Fidel Castro năm 1959 | |
Bí thư thứ nhất Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Cuba | |
Nhiệm kỳ Tháng 10 năm 1965 – 19 tháng 4 năm 2011 45 năm, 200 ngày | |
Cấp phó | Raúl Castro |
Tiền nhiệm | Blas Roca Calderio |
Kế nhiệm | Raúl Castro |
Chủ tịch Cuba | |
Nhiệm kỳ 2 tháng 12, 1976 – 24 tháng 2, 2008 31 năm, 84 ngày | |
Thủ tướng | Không có |
Cấp phó | Raúl Castro |
Tiền nhiệm | Osvaldo Dorticós Torrado |
Kế nhiệm | Raúl Castro |
Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Cuba | |
Nhiệm kỳ 2 tháng 12, 1976 – 24 tháng 2, 2008 31 năm, 84 ngày | |
Tổng thống | Không có |
Tiền nhiệm | Bản thân (với tư cách Thủ tướng) |
Kế nhiệm | Raúl Castro |
Thủ tướng Cuba thứ 16 | |
Nhiệm kỳ 16 tháng 2, 1959 – 2 tháng 12, 1976 17 năm, 290 ngày | |
Tổng thống | Manuel Urrutia Lleó Osvaldo Dorticós Torrado |
Tiền nhiệm | José Miró Cardona |
Kế nhiệm | Bản thân (với tư cách Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng) |
Tổng thư ký Phong trào không liên kết khóa 7 và 23 | |
Nhiệm kỳ 16 tháng 9, 2006 – 24 tháng 2, 2008 1 năm, 161 ngày | |
Tiền nhiệm | Abdullah Ahmad Badawi |
Kế nhiệm | Raúl Castro |
Nhiệm kỳ 10 tháng 9, 1979 – 6 tháng 3, 1983 3 năm, 177 ngày | |
Tiền nhiệm | Junius Richard Jayawardene |
Kế nhiệm | Neelam Sanjiva Reddy |
Thông tin cá nhân | |
Sinh | Fidel Alejandro Castro Ruz 13 tháng 8 năm 1926 Birán, Holguin, Cộng hòa Cuba (1902–1959) |
Mất | 25 tháng 11 năm 2016 La Habana, Cuba | (90 tuổi)
Đảng chính trị | Đảng Cộng sản Cuba |
Phối ngẫu | Mirta Diaz-Balart (1948–1955) Dalia Soto del Valle (1980–nay) |
Quan hệ | Raúl Castro Ruz Emma Castro Ruz Agustina Castro Ruz Ramon Castro Ruz Angela Castro Ruz Juanita Castro Ruz Pedro Emilio Castro Argota Manuel Castro Argota Lidia Castro Argota Antonia Maria Castro Argota Georgina Castro Argota Martin Castro |
Con cái | Fidel Ángel Castro Diaz-Balart Alina Fernández-Revuelta Alexis Castro-Soto Alejandro Castro-Soto Antonio Castro-Soto Angel Castro-Soto Alex Castro-Soto Jorge Angel Castro Laborde Francisca Pupo |
Alma mater | Đại học La Habana |
Chuyên nghiệp | Luật sư |
Chữ ký | |
|
Fidel Alejandro Castro Ruz (phiên âm tiếng Việt: Phi-đen Cát-xtơ-rô) (13 tháng 8 năm 1926 – 25 tháng 11 năm 2016)[1][2] là một nhà cách mạng và chính trị gia người Cuba, một trong những nhà lãnh đạo chủ chốt của Cách mạng Cuba, Thủ tướng Cuba từ tháng 2 năm 1959 đến tháng 12 năm 1976 và sau đó là Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Cuba đến khi ông từ chức tháng 2 năm 2008. Ông là Bí thư thứ nhất Đảng Cộng sản Cuba từ tháng 10 năm 1965 tới tháng 4 năm 2011, em trai ông Raúl Castro, được kế nhiệm chức vụ này vào ngày 19 tháng 4 năm 2011. Ông là người đương thời với những nhà lãnh đạo nổi tiếng như Che Guevara, Hồ Chí Minh, Nelson Mandela,...[3]
Ông sinh ra trong gia đình giàu có và đã có bằng luật. Khi học tập ở Đại học La Habana, ông bắt đầu sự nghiệp chính trị và trở thành một nhân vật được biết đến trong chính giới Cuba.[4] Sự nghiệp chính trị của ông tiếp tục với những lời chỉ trích mang tính chủ nghĩa dân tộc đối với Tổng thống Fulgencio Batista, và sự ảnh hưởng chính trị của Hoa Kỳ với Cuba. Ông trở thành một nhân vật chống Batista kịch liệt và thu hút sự chú ý của chính quyền.[5] Cuối cùng, ông cầm đầu cuộc tấn công thất bại năm 1953 vào Pháo đài Moncada, sau đó bị bắt, xét xử, tống giam và thả tự do. Sau đó ông tới México[6][7] để tổ chức và huấn luyện một cuộc tấn công vào chế độ Batista ở Cuba. Ông và các đồng chí cách mạng rời Mexico tới miền Đông Cuba tháng 12 năm 1956.
Castro lên nắm quyền lực sau thắng lợi của cuộc cách mạng Cuba lật đổ chế độ độc tài được Hoa Kỳ tài trợ[8] của Fulgencio Batista[9] và một thời gian ngắn sau đó trở thành Thủ tướng Cuba.[10] Năm 1965, ông trở thành Bí thư thứ nhất của Đảng Cộng sản Cuba và lãnh đạo cuộc chuyển tiếp Cuba trở thành một nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa độc đảng. Ông đã loại bỏ nền kinh tế thị trường, thi hành chính sách kinh tế tập trung kế hoạch hóa, chú trọng phát triển giáo dục và y tế của đất nước, loại bỏ nạn phân biệt chủng tộc, trấn áp các băng đảng tội phạm đồng thời và những nhân vật bất đồng chính kiến[11]. Năm 1976, ông trở thành Chủ tịch Hội đồng Nhà nước cũng như Hội đồng Bộ trưởng. Ông cũng giữ cấp bậc tối cao quân đội Comandante en Jefe ("Tổng chỉ huy") các lực lượng vũ trang Cuba.
Sau cuộc phẫu thuật ruột bởi một bệnh hệ tiêu hóa không được tiết lộ được cho là diverticulitis,[12] Castro đã chuyển giao các chức vụ của mình cho Phó Chủ tịch thứ nhất, đồng thời là em trai ông, Raúl Castro, ngày 31 tháng 7 năm 2006. Ngày 19 tháng 2 năm 2008, 5 ngày trước khi thời hạn nhiệm kỳ của ông kết thúc, ông thông báo không tiếp tục tham gia tranh cử một nhiệm kỳ nữa với cả chức danh chủ tịch và tổng tư lệnh.[13][14] Ngày 24 tháng 2 năm 2008, Quốc hội Cuba bầu Raúl Castro kế nhiệm ông làm Chủ tịch Cuba.[15]
Trên bình diện quốc tế, Castro đã trở thành một "anh hùng thế giới theo khuôn mẫu của Garibaldi" đối với mọi người trên khắp thế giới đang nỗ lực chống lại chủ nghĩa đế quốc[16]. Castro ủng hộ việc thành lập các chính phủ Mác xít ở Chile, Nicaragua và Grenada, cũng như gửi quân đội tới tham chiến trong các cuộc Chiến tranh Yom Kippur, Chiến tranh Ogaden và Nội chiến Angola. Ông đã được trao tặng rất nhiều giải thưởng và huân chương danh dự của các nước, và đã được xem là nguồn cảm hứng cho nhiều nhà lãnh đạo nổi tiếng khác như Ahmed Ben Bella và Nelson Mandela, người sau đó trao tặng ông giải thưởng dân sự cao nhất của Nam Phi cho người nước ngoài, Huân chương Hảo Vọng[17]
Những người ủng hộ Castro xem ông là một trong những nhà cách mạng kiệt xuất nhất nửa sau thế kỷ XX, là biểu tượng của sự ủng hộ về mặt tinh thần đối với nhân dân những nước có đời sống kinh tế thấp hoặc là bị chính quyền trấn áp trên thế giới. Chính phủ Castro đóng vai trò không nhỏ trong cuộc giải phóng người da đen Nam Phi khỏi chế độ phân biệt chủng tộc Apartheid nói riêng cũng như những cuộc đấu tranh đòi độc lập diễn ra tại các quốc gia châu Phi thời bấy giờ nói chung. Người dân nhiều nước châu Á, châu Phi vẫn ghi nhớ sự giúp đỡ của Fidel Castro cho công cuộc giành độc lập và sự trợ giúp về y tế, giáo dục của Cuba cho các nước này[3] Ngược lại, những quan điểm chỉ trích Castro (từ tổ chức theo dõi nhân quyền Hoa Kỳ hoặc người Cuba sống lưu vong ở Mỹ) thì cáo buộc ông là "nhà độc tài với những hành động vi phạm nhân quyền", đây cũng là lý do chính phủ Mỹ dùng để áp đặt lệnh cấm vận lên Cuba suốt từ năm 1960[18][19].
Fidel Castro cũng là nhà lãnh tụ đã vượt qua nhiều sóng gió và nguy hiểm nhất: tháng 12 năm 2011, Sách Kỷ lục Guinness đã công nhận ông là người bị ám sát nhiều nhất (638 lần), chủ yếu do Cục Tình báo trung ương Mỹ (CIA) tiến hành.
Ông qua đời vào 22h29 ngày 25 tháng 11 năm 2016 (tức vào 10h29 sáng ngày 26 tháng 11 theo giờ Việt Nam). Thi hài của Castro được hỏa táng.[20] sau đó an táng tại thành phố Santiago de Cuba, đông nam Cuba, vào ngày 4 tháng 12 năm 2016.
Tiểu sử
Fidel Castro sinh ngày 13 tháng 8 năm 1927[21] (một năm trễ hơn trong giấy tờ chính thức) trong một gia đình giàu có tại một nông trang nhỏ mang tên Maracas thuộc thành phố Birán, con không chính thức của một chủ đồn điền trồng mía giàu có, Ángel Castro Argiz, di dân từ Tây Ban Nha, và người nấu bếp cho ông, bà Lina Ruz González.[22] Giấy tờ chính thức đầu tiên là một giấy rửa tội ký vào năm 1935, với tên là Fidel Hipólito Ruz González. Lúc đó ông lấy họ của mẹ, bởi vì ông là con không chính thức. Sau khi cha ông ly dị vào năm 1941, ông ta đã hối lộ để được một giấy rửa tội mới cho Fidel. Trong giấy tờ đó ông tên là Fidel Ángel Castro Ruz. Ngày sinh được đổi lại là 13 tháng 8 năm 1926, để mà Fidel có thể theo học trường Jesuiten ở La Habana, bởi vì ông hãy còn nhỏ tuổi. Giấy rửa tội cuối cùng được ký vào tháng 12 năm 1943, sau khi cha ông lấy mẹ ông, có tên là Fidel Alejandro Castro Ruz mà bây giờ vẫn còn được dùng.[22][23]
Lúc nhỏ Castro theo học trường Dòng Tên. Ngay từ năm 1940, khi mới 13 tuổi, ông đã viết một bức thư tiếng Anh gửi cho Tổng thống Mỹ Franklin Delano Roosevelt trình bày về những suy nghĩ của ông về cuộc bầu cử tổng thống Mỹ (khi đó Cuba đang nằm dưới "sự bảo hộ" của Mỹ).
Ông vào Đại học La Habana năm 1945 và tốt nghiệp ngành luật năm 1950. Ngay từ khi học đại học, ông đã dành niềm đam mê cho phong trào chống chủ nghĩa đế quốc và phản đối sự can thiệp của Mỹ vào nội bộ các nước ở Caribbean. Castro gia nhập Ủy ban Đại học vì nền độc lập của Puerto Rico và Ủy ban vì Cộng hòa Dân chủ Dominica.
Trong thời gian học đại học, Castro tham gia vào nhiều tổ chức chống đối chính quyền. Ông hành nghề luật sư từ năm 1950 đến 1952; trở thành đảng viên Đảng Chính thống (tiếng Tây Ban Nha: Partido Ortodoxo) và vận động để tranh cử vào Quốc hội Cuba. Thế nhưng ý định của Castro chưa thành thì nổ ra cuộc đảo chính của tướng Fulgencio Batista. Batista muốn lên nắm chính quyền để ngăn cản sự lớn mạnh của Đảng Chính Thống, hàng ngàn chính khách bị sát hại và dân chúng sống dưới sự đàn áp. Dưới sự hậu thuẫn của Hoa Kỳ, chế độ của Batista được cho là đã sát hại khoảng 20.000 người Cuba.[24]
Castro bắt đầu vận động chống lại Batista bằng biện pháp quân sự. Ông liên kết được hơn 200 người ủng hộ cách mạng trên toàn quốc và trở thành thủ lĩnh của họ. Ngày 26 tháng 7 năm 1953, Fidel Castro cùng em trai mình là Raul Castro và các chiến hữu tấn công vào trại lính Moncada. Hơn 80 chiến hữu bị tử trận, Castro bị bắt. Ông bị đưa ra tòa và bị kết án 15 năm tù. Cuối phiên tòa, Castro đã hùng hồn đọc bài diễn văn "Lịch sử sẽ giải oan cho tôi" (La historia me absolverá), phản ánh quan điểm chính trị của ông.
Một năm sau, nhờ sự vận động của Giáo sĩ dòng Tên (người thầy thời thiếu niên) của Fidel Castro, Batista đặc xá cho anh em nhà Castro. Castro sang México và lập nhóm vũ trang kháng chiến. Nhóm này lấy tên là nhóm Hai Mươi Sáu Tháng Bảy, để tưởng niệm cuộc nổi dậy Moncada ngày 26 tháng 7 trước kia. Trong số những người tham gia vào nhóm này có Che Guevara, một sinh viên y khoa đang tập sự tại Mexico City và cả Raúl Castro, em trai của Fidel.
Ngày 2 tháng 12 năm 1956, nhóm Hai Mươi Sáu Tháng Bảy, gồm 80 người, trở lại Cuba trên con tàu Granma dài 18 mét. Sau khi đổ bộ, họ nhanh chóng bị bao vây bởi quân chính phủ Batista. Một trận đánh ác liệt diễn ra, nhóm cách mạng chỉ còn 12 người sống sót và rút vào vùng rừng núi Sierra Maestra để tổ chức kháng chiến. Trong số những người sống sót, ngoài Fidel Castro còn có Raul Castro (em trai ông), Che Guevara và Camilo Cienfuegos. Nhóm kháng chiến được quần chúng ủng hộ và phát triển lên đến 800 người. Trong suốt 2 năm, họ áp dụng chiến thuật đánh du kích gây nhiều thiệt hại cho quân chính phủ.
Tháng 5 năm 1958, Batista huy động nhiều tiểu đoàn tiến đánh quân kháng chiến. Dù bị thua kém về quân số, phe kháng chiến vẫn thắng nhiều trận quan trọng. Quân của Batista có tinh thần chiến đấu kém nên đào ngũ và đầu hàng rất nhiều. Trong trận La Plata, kéo dài từ 11 tháng 7 tới 21 tháng 7 năm 1958, quân của Fidel Castro đánh bại cả một tiểu đoàn quân chính phủ gồm 500 người, bắt được 240 tù binh, trong khi chỉ mất 3 người.[25]
Ngày 1 tháng 1 năm 1959, quân đội của Fidel Castro tiến vào La Habana, quân đội của Batista đào ngũ hàng loạt và hầu như không kháng cự. Sự kiện này đánh dấu sự thành công cuộc cách mạng Cuba. Khi thua cuộc, Batista chạy trốn khỏi Cuba và sang tỵ nạn chính trị ở Mỹ.
Một giai đoạn quá độ đã được hình thành. Manuel Urrutia Lleó, một chính trị gia không đảng phái đã được tôn lên làm Tổng thống Cuba vào ngày 3 tháng 1 năm 1959. Manuel đã chỉ định một luật sư và là giáo sư Đại học La Habana là José Miró Cardona làm Thủ tướng. Tuy nhiên, chỉ sau 6 tuần, Miró bất ngờ từ chức. Fidel Castro được chỉ định là Thủ tướng. Ông hứa sẽ xây dựng một chính quyền trong sạch và tôn trọng hiến pháp. Chính phủ Castro đã xét xử và tuyên án tử hình hàng trăm cựu quan chức thuộc Đảng Batista vì tội danh tham nhũng.
Hoa Kỳ ban đầu công nhận chính quyền Fidel Castro, nhưng sau khi Castro quốc hữu hóa các công ty nước ngoài tại Cuba thì quan hệ Hoa Kỳ – Cuba trở nên lạnh nhạt. Chính sách kinh tế của Castro làm cho Hoa Kỳ nghi ngờ rằng ông ủng hộ chủ nghĩa cộng sản và có quan hệ với Liên bang Xô viết – đối địch với Hoa Kỳ trong Chiến tranh Lạnh. Tháng 4 năm 1959, Castro viếng thăm Nhà Trắng nhưng Tổng thống Dwight D. Eisenhower từ chối gặp, thay vào đó là Phó tổng thống Richard Nixon. Sau cuộc gặp gỡ này, Nixon cho rằng Castro là một người "ngây thơ" nhưng không nhất thiết là người cộng sản.
Castro đã có cuộc nói chuyện tại Hội đồng Quan hệ Đối ngoại (CFR), một viện chính sách có trụ sở ở New York, bao gồm các công dân và cựu quan chức chính phủ quan tâm tới quan hệ quốc tế của Mỹ. Castro khá cứng rắn trong suốt buổi trao đổi, khẳng định rõ Cuba sẽ không cầu xin Hoa Kỳ viện trợ kinh tế.[26] Fidel Castro cũng trấn an người Mỹ về cách mạng Cuba, ông nói, "Tôi biết rằng thế giới nghĩ gì về chúng tôi, rằng chúng tôi là những người cộng sản, và tất nhiên chúng tôi đã giải thích rất rõ ràng rằng chúng tôi không phải là những người cộng sản; rất rõ ràng."[27]
Tháng 2 năm 1960, chính quyền Castro ký một hiệp định thương mại với Liên Xô, trong đó Liên Xô đồng ý bán dầu hỏa cho Cuba. Dù việc này là quyết định nội bộ của Cuba và không ảnh hưởng gì đến quyền lợi của Hoa Kỳ, nhưng trong bối cảnh chiến tranh Lạnh, Hoa Kỳ không thể chấp nhận một nước ngay sát mình có quan hệ thương mại với Liên Xô. Hoa Kỳ đơn phương cắt đứt mọi quan hệ ngoại giao và áp dụng chính sách cấm vận lên Cuba vào ngày 31 tháng 1 năm 1961. Điều này lại càng khiến Cuba tiếp tục thắt chặt quan hệ với Liên Xô và ngày càng nhận nhiều viện trợ quân sự và kinh tế.
Đánh bại cuộc xâm chiếm do Mỹ hậu thuẫn
Tháng 3 năm 1960, tổng thống Mỹ phê chuẩn một kế hoạch lật đổ Castro của CIA. Kế hoạch này có ngân sách 13 triệu USD để huấn luyện một lực lượng quân sự bên ngoài lãnh thổ Cuba nhằm tiến hành các hoạt động chiến tranh du kích. Tháng 9 năm 1960, Allen W. Dulles, Giám đốc CIA lúc đó, đã khởi xướng các cuộc đàm phán với mafia Cuba (những kẻ đang tức giận vì Castro đã đóng cửa các nhà thổ và sòng bạc ở Cuba) để tiến hành các vụ ám sát nhắm vào Fidel Castro. Cục Điều tra Liên bang được lệnh không tiến hành các cuộc điều tra chống lại nhóm mafia này tại Mỹ. Các đời thổng thống Mỹ tiếp theo vẫn theo đuổi chính sách ám sát Castro bằng các chiến dịch bí mật khác nhau.[28]
Vào tháng 3 năm 1961, CIA giúp những người Cuba lưu vong tại Miami thành lập Hội đồng Cách mạng Cuba (CRC), do José Miró Cardona, cựu Thủ tướng Cuba vào tháng 1 năm 1959, làm chủ tịch. Cardona trên thực tế trở thành tổng thống chờ đợi cho chính quyền Cuba hậu xâm lược.[29] Do đã tiên đoán được cuộc xâm lược, Che Guevara đã nhấn mạnh tầm quan trọng của lược lượng dân quân vũ trang, nói rằng "mọi người dân Cuba phải là một đội quân du kích, mỗi một người Cuba phải học cách sử dụng súng và khi cần phải dùng chúng để bảo vệ đất nước."[30]
Theo Đại sứ Anh tại Hoa Kỳ, David Ormsby-Gore, tình báo Anh cho Mỹ biết rằng đa số người dân Cuba ủng hộ Fidel và sẽ khó mà xảy ra hiện tượng đào ngũ hoặc khởi nghĩa hàng loạt sau khi xâm lược, điều này cũng đã được chuyển tới CIA nhưng Mỹ bỏ qua điều này CIA rất tự tin là họ đủ khả năng lật đổ chính phủ Cuba, vì đã có kinh nghiệm thành công trước đây như Cuộc đảo chính ở Guatemala 1954.
Ngày 17 tháng 4 năm 1961, Hoa Kỳ yểm trợ một đạo binh gồm 1.300 lính Cuba lưu vong đổ bộ lên vùng Vịnh Con Lợn (tiếng Anh: Bay of Pigs) nhằm mục đích lật đổ Fidel Castro. Đó chính là sự kiện Vịnh Con Lợn. Hàng chục máy bay ném bom của Mỹ oanh tạc khắp lãnh thổ Cuba, gây ra cái chết của hàng ngàn thường dân.
Sau khi được dân quân địa phương thông báo về lực lượng đổ bộ, Fidel Castro đã đích thân tới Vịnh Con Lợn để chỉ đạo chiến đấu. Tới 4 giờ chiều ngày 17 tháng 4 năm 1961, Fidel Castro đã tới trung tâm nhà máy đường Australia, gia nhập với José Ramón Fernández, người đã được ông chỉ định làm chỉ huy chiến trước trước buổi sáng ngày hôm đó.
Sau 2 ngày chiến đấu, quân đổ bộ đã bị đánh tan hoàn toàn bởi Quân đội Cách mạng Cuba. Fidel Castro đã đích thân ra trận cùng các binh sĩ, ông chỉ huy trận đánh trên một chiếc xe tăng T-34 dẫn đầu đội hình chiến đấu của quân đội Cuba trong cuộc chiến trên vịnh Con lợn. Đặc biệt chiếc T-34 do ông chỉ huy đã bắn hạ 2 chiếc xe tăng M4 Sherman trong khi tham chiến.[31]
Cuộc đổ bộ thất bại và nhiều người bị bắt, chín chỉ huy quân đổ bộ bị xử tử vì tội phản bội Tổ quốc. Dù chiến thắng nhưng cuộc xâm lược do Mỹ hậu thuẫn đã khiến Castro trở nên lo ngại về các cuộc xâm chiếm trong tương lai của Mỹ vào Cuba.[32] Hiện vẫn có những cuộc diễn tập quân sự được tổ chức hàng năm trên cả nước Cuba trong 'Dia de la Defensa' (Ngày Quốc phòng) để chuẩn bị cho quân đội và dân chúng trước một cuộc xâm lược do Mỹ tiến hành.
Ngày 1 tháng 5 năm 1961, ông tuyên bố Cuba là một quốc gia theo Xã hội chủ nghĩa và chính thức bãi bỏ sự bầu cử đa đảng.[4] Những người phê phán Castro cho rằng ông sợ những cuộc bầu cử sẽ khiến ông mất uy quyền.[4] Cũng trong ngày hôm đó, hàng trăm ngàn người dân Cuba nghe lãnh tụ Castro tuyên bố:[33]
“ |
Cách mạng không kết thúc sau một thời hạn nhất định, vì thế chúng ta không cần phải bầu cử. Tại châu Mỹ La Tinh này, không có một chính phủ nào dân chủ hơn chính phủ cách mạng của chúng ta... Nếu ngài Kennedy không ưa xã hội chủ nghĩa, thì chúng ta cũng ghét chủ nghĩa đế quốc vậy. Chúng ta căm ghét chủ nghĩa tư bản. |
” |
— Fidel Castro |
Cũng trong năm đó, ngày 2 tháng 12, Castro tuyên bố rằng ông theo chủ nghĩa Marx-Lenin, và Cuba sẽ đi theo chủ nghĩa cộng sản. Cuối năm 1961, ông được Liên bang Xô viết trao tặng Giải thưởng Hoà bình Lenin.
Cuộc xâm chiếm được Mỹ dự định sẽ loại bỏ chính phủ Cuba, nhưng rốt cục chính nó lại giúp Cuba trở nên thân thiết hơn với Liên Xô, một phần là để được bảo vệ trước các sự gây hấn tiếp theo từ phía Mỹ. Từ một người ủng hộ chủ nghĩa bình đẳng đơn thuần, cuộc tấn công của Mỹ đã khiến Fidel Castro đặt hoàn toàn niềm tin và sự ủng hộ vào chủ nghĩa cộng sản.
Các chiến dịch chống Cuba vẫn được Cục tình báo Mỹ CIA tiếp tục tiến hành nhiều năm sau đó; nhiều âm mưu ám sát Fidel Castro và ám sát thành công các quan chức khác; vụ đặt bom năm 1960 (3 người Mỹ bị giết và 2 bị bắt) và các vụ đánh bom khủng bố nhằm vào khách du lịch năm 1997; vụ đánh bom tàu của Pháp tại cảng La Habana (ít nhất 75 người chết); vụ tấn công sinh học bằng virus bệnh cúm khiến nửa triệu con lợn bị chết; và vụ đánh bom máy bay chở khách của Cuba (78 người chết) của Luis Posada Carriles và Orlando Bosch. Chính Bosch đã được tổng thống Mỹ George W. Bush ân xá và hai hung thủ này vẫn tự do tại Mỹ bất chấp việc Mỹ tuyên bố chống chủ nghĩa khủng bố[24].
Xây dựng đất nước
Sau khi lật đổ nhà độc tài Fulgencio Batista, Fidel Castro đã phải tiếp nhận một nền kinh tế yếu kém về cơ cấu, thịnh vượng bề ngoài và nhất thời. Lực lượng chống đối do Fulgencio Batista đứng đầu đã lấy đi hàng triệu peso từ Ngân hàng Quốc gia và Kho bạc trước khi bỏ trốn ra nước ngoài. Những người Cuba giàu có đã rời khỏi đảo khiến chính quyền mới thất thu về thuế. Ngay sau khi Hoa Kỳ áp lệnh cấm vận, kinh tế Cuba đã trở nên khó khăn khi 95% tư liệu sản xuất của Cuba và toàn bộ các linh kiện được nhập khẩu từ Hoa Kỳ. Hoa Kỳ cũng là nguồn nhập khẩu chính của Cuba. Điều này đã khiến nền kinh tế Cuba lúc mới bị cấm vận trở nên đình đốn do thiếu nguyên liệu đầu vào và mất đi thị trường xuất khẩu chính. Chính phủ Cuba ước tính lệnh cấm vận của Hoa Kỳ đã khiến nước này thiệt hại 753,69 tỷ USD (tính đến năm 2012)[34]
Tỷ lệ tử vong của trẻ em là một vấn đề lớn ở Cuba. Tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh là 60 phần nghìn vào năm 1959. Để đối phó với thực trạng này, Fidel đã đưa vào hệ thống chăm sóc y tế miễn phí và bắt đầu một chương trình tiêm chủng toàn quốc. Tới năm 1980, tỷ lệ tử vong trẻ em giảm xuống còn 15 phần nghìn. Con số này hiện ở mức tốt nhất trong số các nước đang phát triển.
Năm 1967, người bạn chiến đấu của Fidel, Che Guevara, bị Cục tình báo trung ương Mỹ sát hại ở Bolivia. Trong buổi lễ tưởng niệm Che, ngày 18 tháng 10 năm 1967, Fidel phát biểu:
- "Nếu phải diễn tả hình ảnh tương lai của thế hệ con cháu mà chúng ta muốn chúng trở thành, chúng ta sẽ nói rằng: Hãy giống như Che. Nếu phải bày tỏ lòng mong ước con cháu mình sẽ được giáo dục như thế nào, chúng ta sẽ nói không chút ngần ngại rằng: Chúng ta muốn chúng được giáo dục theo tinh thần của Che".
Năm 1964, nghe tin chiến sỹ Việt Nam là Lâm Sơn Náo đã đột kích, đánh chìm tàu sân bay hộ tống USS Card của Mỹ, Chủ tịch Fidel Castro đã gửi tặng Lâm Sơn Náo một khẩu súng ngắn Browning như một lời cổ vũ, ngợi khen chiến sỹ biệt động Việt Nam (Khẩu súng này hiện được lưu giữ trong Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam).
Ngày 15 tháng 9 năm 1973, giữa lúc cuộc Chiến tranh Việt Nam đang diễn ra, ông đến thăm Quảng Trị, Việt Nam khi đó đang nằm dưới quyền quản lý của Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Đây là chuyến thăm đặc biệt đáng nhớ nhất của không chỉ riêng ông mà còn với những người Việt Nam mà ông đã gặp như Đại tá Hồ Văn A, Thủ tướng Phạm Văn Đồng, Đại tướng Võ Nguyên Giáp.[35]
Cuối năm 1976, một Hiến pháp Cuba mới được xây dựng với những thay đổi về cơ cấu chính quyền. Ngày 2 tháng 12 năm 1976, Fidel Castro được bầu vào chức vụ Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Cộng hòa Cuba, một chức vụ vừa là nguyên thủ quốc gia của Cuba, vừa là người đứng đầu Chính phủ Cuba. Chức vụ này được Quốc hội Cuba bầu ra với nhiệm kỳ 5 năm, Fidel đã đắc cử suốt 7 nhiệm kỳ và giữ chức vụ này liên tục trong 32 năm cho tới khi nghỉ hưu.
Chính quyền Castro áp dụng chính sách kinh tế xã hội chủ nghĩa, quốc hữu hóa các ngành công nghiệp và hợp tác hóa nông nghiệp. Chính sách này làm cho giới thượng lưu bất mãn, kể cả những người trước kia ủng hộ kháng chiến. Nhiều người trong số này trốn sang Hoa Kỳ và lập ra những tổ chức chống Fidel Castro tại Florida. Ngày 28 tháng 3 năm 1980, một chiếc xe buýt tông sập cổng tòa đại sứ Peru ở thủ đô La Habana. Trong vòng 48 tiếng, hơn 10.000 người Cuba đã nhân cơ hội tràn vào tòa đại sứ xin tị nạn chính trị. Ngày 10 tháng 4 năm 1980, Castro tuyên bố cho mọi người dân được tự do rời Cuba qua cảng Mariel ở La Habana nếu họ muốn. Khoảng hơn 125 nghìn người dân Cuba xuống tàu, trên một cuộc hành trình được Hoa Kỳ gọi là "Đoàn Tàu Tự Do" hay là cuộc di tản Mariel, đa số đến Florida, Hoa Kỳ. Cuộc di cư chấm dứt sau khi không còn người Cuba nào muốn xuống tàu ra nước ngoài nữa.
Trong 3 thập kỷ 1970-1990, Castro bước ra vũ đài quốc tế với tư cách người phát ngôn hàng đầu của các chính phủ "chống chủ nghĩa đế quốc" của Thế giới thứ ba. Nhờ những nỗ lực ngoại giao của Fidel, tới thập niên 1970, khả năng cô lập Cuba của Hoa Kỳ đã bị sụt giảm. Cuba đã bị trục xuất khỏi Tổ chức các nước châu Mỹ năm 1962 do áp lực từ Hoa Kỳ, nhưng vào năm 1975, Tổ chức các nước châu Mỹ dỡ bỏ mọi lệnh cấm vận chống Cuba và cả México cùng Canada đều thiết lập quan hệ thân cận với Cuba.
Trong thời kỳ này, nhờ sự trợ giúp của khối Xã hội chủ nghĩa và sự tự lực trong nước, kinh tế Cuba phát triển nhanh chóng. Thập niên 1970, kinh tế Cuba tăng trưởng bình quân 7%/năm, nửa đầu thập niên 1980 là 8% mỗi năm. Thu nhập của người dân Cuba đạt mức trung bình cao trên thế giới. Giáo dục, y tế đã đạt mức tương đương các quốc gia phát triển[36]
Sau khi Liên Xô sụp đổ, Cuba đưa ra các biện pháp kinh tế mới, gồm cho phép một số công ty tư nhân hoạt động trong lĩnh vực bán lẻ và chế tạo, hợp pháp hóa sự sử dụng đồng dollar Mỹ trong thương mại và khuyến khích du lịch. Năm 1996 du lịch đã vượt qua ngành công nghiệp mía đường để trở thành nguồn thu ngoại tệ lớn nhất cho Cuba. Cuba đã tăng gấp ba thị phần du lịch của mình tại Caribbean trong thập kỷ qua, với sự đầu tư to lớn vào hạ tầng du lịch, tỷ lệ tăng trưởng này được dự đoán sẽ còn tiếp diễn.[37] 1,9 triệu du khách đã tới Cuba năm 2003 chủ yếu từ Canada và Liên minh châu Âu mang lại khoản tiền 2,1 tỷ dollar cho nước này.[38] Chính phủ Cuba đã phát triển đáng kể khả năng Du lịch y tế của họ, coi đó là một trong những phương tiện quan trọng mang lại thu nhập cho đất nước. Trong nhiều năm, Cuba đã phát triển các bệnh viện đặc biệt điều trị bệnh riêng cho người ngoại quốc và các nhà ngoại giao nước ngoài. Mỗi năm, hàng ngàn người châu Âu, người Mỹ Latinh, người Canada và người Mỹ tới đây để sử dụng các dịch vụ chăm sóc y tế có giá cả thấp hơn tới 80% so với tại Hoa Kỳ.
Tới cuối thập kỷ 1990, Cuba đã có các mối quan hệ kinh tế với hầu hết các quốc gia Mỹ Latinh và đã cải thiện quan hệ với Liên minh châu Âu, tổ chức này bắt đầu có quan hệ thương mại với Cuba. Trung Quốc cũng xuất hiện với tư cách một đối tác tiềm năng mới. Cuba cũng tìm thấy các đồng minh mới là Venezuela và Bolivia, những nước xuất khẩu dầu và khí tự nhiên lớn.
Năm 2014, Cuba thống kê việc Hoa Kỳ cấm vận chống Cuba đã khiến kinh tế nước này thiệt hại 1,11 nghìn tỷ USD trong 55 năm qua (trung bình mỗi năm thiệt hại 20 tỷ USD). Trong 22 năm qua, Liên hiệp quốc năm nào cũng thông qua một nghị quyết yêu cầu Hoa Kỳ dỡ bỏ cấm vận chống Cuba với sự ủng hộ áp đảo của các thành viên thể hiện sự đoàn kết ủng hộ cho Cuba. Năm 2013, bản nghị quyết đã nhận được 188 phiếu thuận và chỉ có 2 phiếu chống của Mỹ và Israel[39] (tuy nhiên, do Mỹ là nước có quyền phủ quyết ở Liên Hiệp quốc nên dù Nghị quyết có số phiếu thuận áp đảo thì vẫn không được thông qua). Năm 2014, sau 53 năm bao vây cấm vận, Tổng thống Mỹ Barack Obama đã tuyên bố mong muốn bình thường hóa quan hệ giữa 2 nước.
Bất chấp thiệt hại do cấm vận kinh tế, theo số liệu của Ngân hàng Thế giới (WB), Cuba vẫn là nước có thu nhập bình quân đầu người ở mức khá cao, đạt mức 18.796 USD/người/năm (theo sức mua tương đương - PPP) vào năm 2011, bằng một nửa Nhật Bản và xếp hạng 60/185 quốc gia.[40] Chỉ số phát triển con người (HDI) cũng ở mức cao (0,815 điểm vào năm 2013, hạng 44 thế giới)[41]
Tháng 1 năm 2004, Luis Eduardo Garzón, thị trưởng của Bogotá – thủ đô của Columbia – sau cuộc gặp gỡ với Castro nói rằng ông ta "trông có vẻ rất ốm yếu". Tháng 5 năm 2004, bác sĩ của Castro bác bỏ các tin đồn cho rằng sức khỏe Castro đang xuống dốc. Ông tuyên bố rằng Castro sẽ sống đến 140 tuổi.
Ngày 20 tháng 10 năm 2004, Castro bị vấp ngã sau khi đọc diễn văn trước một cuộc mít tinh. Cú ngã này làm ông bị gãy xương tay và đầu gối. Ông ta phải trải qua ba giờ giải phẫu. Sau đó Castro viết một lá thư để đăng lên báo, đài. Trong thư ông cam đoan với công chúng rằng mình vẫn khỏe và sẽ "không mất liên lạc với quý vị".
Sau cuộc phẫu thuật dạ dày năm 2006, Fidel Castro đã tạm trao quyền lãnh đạo đất nước cho người em trai của mình là ông Raul Castro. Kể từ đó, Fidel Castro ít xuất hiện trước công chúng.[42][43]
Ngày 18 tháng 2 năm 2008, ông tuyên bố ý định thôi giữ chức vụ Chủ tịch Hội đồng Nhà nước và Tổng tư lệnh quân đội Cuba, kết thúc sự nghiệp chính trị sau gần 50 năm.[21]
Tổng tư lệnh cách mạng Cuba, Fidel Castro, đã qua đời lúc 22h29 ngày 25/11/2016 giờ Cuba (thông báo trên truyền hình quốc gia Cuba).
Cống hiến
Castro có quan điểm kiên định về đạo đức. Ông tin rằng rượu cồn, ma túy, đánh bạc và mại dâm là những tội lỗi lớn. Ông coi sòng bạc và các câu lạc bộ đêm là nguồn gốc của sự cám dỗ và suy đồi đạo đức nên sau khi lên nắm quyền (năm 1961), ông đã đề ra luật đóng cửa những cơ sở này. Hiện nay, Cuba là nước có tỷ lệ tội phạm thấp nhất tại khu vực châu Mỹ.[44]
Trong chế độ Batista, nhiều cơ sở dịch vụ thể hiện sự phân biệt chủng tộc khi có 2 khu dành riêng cho người da đen và da trắng (bể bơi, bãi biển, khách sạn, nghĩa địa,...). Fidel đã xóa bỏ tất cả những sự phân biệt này, ông cấm các khu dịch vụ mở những khu vực dành riêng cho mỗi chủng tộc, tất cả mọi người đều bình đẳng khi sử dụng dịch vụ[28].
Trong suốt giai đoạn lãnh đạo của mình, Fidel rất quan tâm tới phúc lợi xã hội cho người dân (giáo dục, y tế,...). Trước cuộc cách mạng, 23,6% dân số Cuba mù chữ. Tại các vùng nông thôn, trên 50% dân số không biết đọc biết viết và 61% trẻ em không có cơ hội tới trường. Castro đã yêu cầu các sinh viên thành phố về nông thôn để dạy người dân biết chữ. Cuba giương cao khẩu hiệu: "Nếu bạn không biết, hãy học. Nếu bạn biết, hãy dạy", nhờ vậy nạn mù chữ được thanh toán. Giáo dục ở Cuba hiện nay là miễn phí ở tất cả các cấp học dưới sự kiểm soát của Nhà nước Xã hội chủ nghĩa, không có chuyện trẻ em bị thất học vì đói nghèo.
Tháng 1 năm 1998, Fidel Castro đã nói về một trong những thành tựu mà ông coi là lớn nhất trong cuộc đời mình:[45]
“ |
Đêm nay có hàng triệu trẻ em phải ngủ ngoài đường. Nhưng không có trẻ em nào trong số đó là người Cuba" |
” |
— Fidel Castro |
Chính quyền Cuba điều hành hệ thống y tế toàn dân và tự gánh trách nhiệm tài chính và quản lý cho toàn bộ hệ thống. Trước cách mạng, Cuba chỉ có 6.000 bác sĩ, 64% số này làm việc ở La Habana, nơi sinh sống của đại đa số những người giàu có nhất. Fidel Castro đã yêu cầu các bác sĩ phải được phân bổ đều khắp đất nước, đồng thời cho xây dựng ba trường đại học y khoa mới. Bất kỳ hoạt động y tế nào mang tính chất tư nhân để thu lợi nhuận đều bị Chính phủ Cuba nghiêm cấm. Năm 1976, chương trình chăm sóc sức khỏe Cuba được đưa thành điều 50 của Hiến pháp Cuba, theo đó quy định rằng "tất cả mọi người được quyền bảo vệ và chăm sóc sức khỏe miễn phí".
Một số thống kê về Cuba được tờ Independent của Anh nêu ra về y tế Cuba vào năm 2006:[46]
- Tuổi thọ bình quân: nam 75,11; nữ: 79,85 (Mỹ tương ứng là 75; 80,8).
- Tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh: 6,22 ca tử vong trên 1.000 trẻ em (Mỹ là 6,43).
- Tỷ lệ nhiễm HIV: dưới 0,1% (Mỹ: 0,6%).
- Số bác sĩ trên 1000 dân: 5,91 (Mỹ: 2,56).
- Số giường bệnh trên 10.000 dân: 49 (Mỹ: 33).
- 25.000 bác sĩ Cuba đang làm nhiệm vụ nhân đạo tại 68 quốc gia. Năm 2006, 1.800 bác sĩ từ 47 nước đang phát triển đã tốt nghiệp từ 21 trường y tế của Cuba. Mỗi năm có hơn 5.000 "khách du lịch sức khỏe" đi du lịch tới Cuba, tạo ra hơn 40 triệu USD cho nền kinh tế Cuba.
- Số bác sĩ được Fidel Castro gửi sang Mỹ để giúp đỡ các nạn nhân của cơn bão Katrina: 1.586
Chính phủ Cuba thường xuyên cử các đoàn y tế tới các khu vực có thiên tai, dịch bệnh trên thế giới (đặc biệt tại các nước nghèo) để hỗ trợ[47][48] Kể từ khi Cuba cử một nhóm bác sĩ đến giúp Chile khắc phục hậu quả của một trận động đất năm 1960, đến nay Cuba này đã gửi hơn 135.000 nhân viên y tế đến nhiều nơi trên thế giới trong các sứ mệnh nhân đạo. "Ngoại giao y tế" tạo ra lợi ích sức khỏe và cải thiện quan hệ giữa các quốc gia là nền tảng của chính sách đối ngoại Cuba trong suốt hàng chục năm qua. Bên cạnh những giá trị về nhân đạo và tạo lập hình ảnh quốc gia, Cuba cũng được hưởng lợi kinh tế từ chính sách "ngoại giao y tế". Cùng với các dịch vụ giáo dục, thể thao, việc cử các chuyên gia y tế ra nước ngoài làm việc đưa về cho Cuba khoảng 10 tỷ USD hàng năm, trở thành nguồn thu nhập quan trọng nhất đối với hòn đảo này.[49]
Ngày 1 tháng 7 năm 2015, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) chính thức xác nhận Cuba trở thành quốc gia đầu tiên đã thành công trong việc ngăn chặn virus HIV truyền từ mẹ sang con. Theo Giám đốc WHO Margaret Chan, thành công của Cuba là một trong những thành tựu quan trọng nhất của hệ thống y tế toàn cầu, là chiến thắng y học rất vĩ đại của nhân loại trong cuộc chiến lâu dài với HIV/AIDS. Một trong những yếu tố quan trọng là nhờ vào hệ thống chăm sóc y tế quốc gia toàn diện tập trung vào sức khỏe sản phụ. Tại Cuba có đến 99% bà mẹ mang thai và 100% các bé sơ sinh từ mẹ bị HIV đều được điều trị thuốc ngăn chặn phơi nhiễm HIV và các loại thuốc này miễn phí hoàn toàn cho bệnh nhân, theo hướng dẫn của bác sĩ.[50]
Một ký giả Việt Nam đã từng sang Cuba 4 lần từ năm 2006 đến 2014; cũng đã được làm việc với lãnh đạo Bộ Kinh tế Cuba; Bộ Nội vụ Cuba, đã nhận xét:[51]
- Quả thật, tôi cũng xin phép được nhắc lại câu của Đại sứ Lê Quảng Ba nếu như nói về Cuba: "Bao giờ ta có thể làm được như họ?!".
- Bấy lâu nay, thế giới và cả Việt Nam nữa – cũng không hiểu Cuba. Rất nhiều lời nhận xét về Cuba là xuất phát từ những kẻ trọc phú lắm tiền. Nói nôm na là họ coi cái gì ở Cuba cũng kém, cũng xấu. Nhưng họ không biết rằng, ở Cuba, có những điều mà ít nhất 2/3 dân số Việt Nam đang nằm mơ cũng không được như vậy.
- Tất cả trẻ em Cuba đều được giáo dục miễn phí ngay từ mẫu giáo lớn (5 tuổi) cho đến khi tốt nghiệp đại học hoặc học lên đến tiến sĩ... Tất cả người dân Cuba đều được khám, chữa bệnh miễn phí và được dùng những loại thuốc tốt nhất có thể... Tất cả người dân, trẻ em Cuba đều được uống sữa tươi miễn phí... Rồi nữa, giáo dục của Cuba được xếp vào hàng tiên tiến nhất thế giới, ngang với Đan Mạch. Y tế Cuba thì đứng vào hàng đầu và họ đã chế ra được vắc-xin phòng chống bệnh ung thư và nhiều loại thuốc đặc biệt khác. Thể thao Cuba thì cũng đứng vào hàng thứ 14, 15 trên thế giới.
- Còn về trật tự xã hội thì quả thực đó là một thiên đường cho sự ngăn nắp, nề nếp, văn minh và sự tôn trọng các quy tắc trật tự đô thị, bảo vệ môi trường.
- Đúng là người dân Cuba còn thiếu thốn bởi lệnh cấm vận dã man của Mỹ. Nhưng trong phạm vi có thể, Chính phủ Cuba đã lo cho trẻ em và người già hết mức. Đấy chính là bản chất tốt đẹp của chế độ xã hội chủ nghĩa.
- Những kẻ trọc phú sẽ không bao giờ nhìn thấy những điều đó bởi họ quen đến những nơi có tiền là có thể mua tất cả. Nhưng họ lại không nghĩ rằng, có những điều trong cuộc sống con người ta mà có tiền cũng chẳng thể mua được: Đó là sự hạnh phúc, bình an... Mà cũng phải nói thêm rằng, bình quân thu nhập theo đầu người của Cuba còn cao gấp 3 lần người Việt Nam. Và Cuba đã dành 54% tổng thu nhập quốc gia cho giáo dục và y tế.
Cuba thời Fidel Castro đã tham gia vào 17 cuộc cách mạng châu Phi, giành được chiến thắng vĩ đại ở Angola và tạo hiệu ứng suốt miền nam châu Phi. Những hình ảnh từ chuyến thăm Cuba của Nelson Mandela đến gặp Fidel Castro vào năm 1991, ngay sau khi rời khỏi nhà tù sau 27 năm, vẫn hình ảnh mang tính biểu tượng của lòng biết ơn tới Cuba đóng góp cho phong trào giải phóng ở các bộ phận khác nhau của châu Phi. Fidel từng nói "Angola rất giàu tài nguyên thiên nhiên. Một số đế quốc tự hỏi tại sao chúng tôi giúp người dân Angola, nhằm đạt những lợi ích gì. Chúng tôi không nhằm bất kỳ lợi ích vật chất nào cả, mà chúng tôi đang thực hiện nghĩa vụ quốc tế cao cả"[52] (sau này khi Fidel mất, Angola đã để quốc tang cho ông).
Hình ảnh minh họa ấn tượng nhất của sự cống hiến của ông cho cuộc tranh đấu của châu Phi là can thiệp của ông ở Namibia và Angola chống lại chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi được sự ủng hộ của Mỹ và các cường quốc thực dân Tây Âu khác nhằm khai thác và thống trị của châu lục này. Sự trợ giúp của Fidel cho các nước châu Phi vẫn tiếp tục cho đến nay. Minh chứng đậm nét là sự hỗ trợ hào phóng của Cuba trong cuộc chiến chống lại đại dịch Ebola cho các nước Tây Phi vào năm 2014[53]. Sau khi Namibia độc lập, Castro gửi giáo viên Cuba, kỹ sư và bác sĩ y khoa Cuba đến để giúp tái thiết Namibia và cho đến ngày nay người dân Namibia vẫn được hưởng sự chăm sóc và tư vấn của các bác sĩ Cuba ở đây, nhờ vào lòng hảo tâm và tầm nhìn xa rộng lớn của Castro.[54]. Sau chiến tranh, khi Angola không đủ khả năng trả nợ cho Cuba, Fidel từng nói "Chúng tôi làm Cách mạng không phải để các bạn trả tiền". Hơn 42% nhân viên y tế tại Angola là người Cuba, nhiều người quyết định ở lại sau chiến tranh.[55] Fidel Castro được Ban lãnh đạo Liên đoàn phụ nữ dân chủ thế giới (FDIM) phong tặng là "Công dân Toàn cầu" vào ngày 5 tháng 12 năm 2006.[56]
Hình ảnh đại chúng
– Wayne S. Smith, US Interests Section in Havana Chief from 1979 to 1982, in 2007.[57]
Trong lịch sử hiện đại, Fidel Castro là một nhà lãnh đạo nhận được những nhận định mâu thuẫn.[3] Truyền thông phương Tây miêu tả ông là một nhà độc tài[58][59][60][61][62] và thời gian cầm quyền của ông là dài nhất trong lịch sử Mỹ Latinh hiện đại.[59][60][61][62], tổ chức theo dõi nhân quyền Hoa Kỳ buộc tội ông tạo ra một "bộ máy đàn áp".[18] Tổ chức Ân xá Quốc tế (Hoa Kỳ) thì mô tả ông là "một nhà lãnh đạo tiến bộ nhưng có nhiều khiếm khuyết", theo đó Fidel cần được "hoan nghênh" với những "cải tiến đáng kể" của chính quyền đối với y tế và giáo dục, nhưng đồng thời tổ chức này cũng chỉ trích ông vì cho rằng ông đã đàn áp quyền tự do của con người[63]. Tuy nhiên, nhân dân Cuba xem ông là một vị anh hùng, người đã thực hiện cuộc cách mạng và đấu tranh vì nền độc lập của đất nước Cuba. Họ gọi ông là "Fidel vô cùng yêu mến" và tôn vinh "sự nhạy cảm đặc biệt của ông đối với những người khác" cùng với "tinh thần chiến đấu không mệt mỏi vì lý tưởng".[64].
Nhà viết tiểu sử Leycester Coltman mô tả ông là "người nhiệt huyết, làm việc chăm chỉ, tận tâm, trung thành... rộng lượng và hào hùng" nhưng cần chú ý rằng ông sẽ không tha thứ cho kẻ thù. Ông khẳng định, Castro "luôn luôn có một cảm giác quan tâm và hài hước" nhưng có thể sẽ có "cơn thịnh nộ dữ dội nếu ông nghĩ rằng mình đã bị lăng nhục"[65] Nhà viết tiểu sử Peter Bourne ghi nhận Fidel có thái độ quan tâm đặc biệt với nhân dân, ông coi họ "như những thành viên trong đại gia đình khổng lồ của mình"[66] Nhà sử học Alex Von Tunzelmann nhận xét "mặc dù độc đoán, Castro là một người yêu nước, một người đàn ông với ý thức sâu sắc về nhiệm vụ cứu vớt nhân dân Cuba".[67]
Sử gia và nhà báo Richard Gott coi Castro là "một trong những nhân vật chính trị khác thường nhất của thế kỷ 20", ghi nhận Castro đã trở thành một "anh hùng thế giới theo khuôn mẫu của Garibaldi" với mọi người trên khắp thế giới đang nỗ lực chống lại chủ nghĩa đế quốc[16] Ông đã được trao tặng nhiều giải thưởng danh dự của Chính phủ các nước, và đã được xem là nguồn cảm hứng cho nhiều nhà lãnh đạo nước ngoài như Ahmed Ben Bella và Nelson Mandela, người sau đó trao tặng ông giải thưởng dân sự cao nhất của Nam Phi cho người nước ngoài, Huân chương Hảo Vọng[17]
Đối với những cáo buộc từ phương Tây rằng ông là nhà độc tài, Fidel Castro tuyên bố rằng nhà nước đôi khi phải hạn chế quyền tự do của một số cá nhân để bảo vệ các quyền lợi của tập thể người dân như quyền được lao động, giáo dục, chăm sóc sức khỏe và y tế miễn phí[68]. Bourne Castro ghi nhận rằng tầm ảnh hưởng mạnh mẽ của Castro ở Cuba hoàn toàn là từ những giá trị của bản thân con người ông. Bourne lưu ý rằng rất hiếm có một quốc gia và một dân tộc hoàn toàn ủng hộ bởi "nhân cách từ một con người" như đối với Fidel.[69]
Đời sống riêng
Những chi tiết về cuộc sống riêng tư của Castro, đặc biệt mà có dính líu tới những thành viên trong gia đình, ít được biết, bởi vì báo chí nhà nước bị cấm đề cập tới.[70] Với người vợ đầu tiên, bà Mirta Díaz-Balart (Con gái Bộ trưởng Nội vụ lúc đó), mà ông cưới vào ngày 11 tháng 10 năm 1948, Castro có một người con trai tên Fidel Ángel "Fidelito" Castro Díaz-Balart, sinh ngày 1 tháng 9 năm 1949. Díaz-Balart và Castro ly dị trong năm 1955, sau đó bà cưới Emilio Núñez Blanco. Sau một thời gian cư trú ở Madrid, Díaz-Balart đã trở về La Habana để sống với Fidelito và gia đình ông.[71] Fidelito lớn lên ở Cuba; có một thời, ông làm Chủ tịch Ủy ban Năng lực nguyên tử Cuba nhưng sau đó bị cách chức bởi chính cha mình.[72]
Ngoài ra, Fidel có năm người con trai khác với người vợ thứ hai, Dalia Soto del Valle: Antonio, Alejandro, Alexis, Alexander "Alex" and Ángel Castro Soto del Valle.[72] Trong khi Fidel ở với Mirta, ông đã ngoại tình với Natalia "Naty" Revuelta Clews, sinh ở La Habana vào năm 1925 và đã làm đám cưới với Orlando Fernández, đẻ ra một người con gái tên Alina Fernández.[72] Alina rời khỏi Cuba vào năm 1993, hóa trang làm một du khách người Tây Ban Nha,[73] và xin tị nạn ở Hoa Kỳ. Bà đã chỉ trích chính sách của cha mình.[74] Với một phụ nữ khác không được biết tên, ông có một người con trai khác, tên Jorge Ángel Castro. Fidel còn có một người con gái khác, Francisca Pupo (sanh năm 1953) kết quả của một cuộc tình một đêm. Pupo và chồng bà bây giờ sống ở Miami.[75][76] Người viết tiểu sử về Castro, ông Robert E. Quirk ghi nhận là trong suốt cuộc đời, Fidel thường có quan hệ tình một đêm với các người đàn bà khác vì ông "không có khả năng để duy trì một quan hệ yêu đương lâu dài với bất cứ người phụ nữ nào."[77][78]
Em gái của ông, bà Juanita Castro, từng là một nhân viên tình báo Mỹ (CIA) hoạt động chống lại chính anh em trai mình trước khi chuyển sang sống ở Hoa Kỳ ngay từ đầu thập niên 1960. Khi bà đi tỵ nạn, đã nói là "Tôi không thể hờ hững với những gì đang xảy ra trên đất nước tôi. Hai anh em của tôi, Fidel và Raúl đã biến nước tôi thành một nhà tù khổng lồ được bao quanh bởi biển cả. Người dân đang bị trói buộc và hành hạ bởi chủ nghĩa cộng sản quốc tế."[79]
Báo RFI dẫn lời sĩ quan cận vệ Juan Reinaldo Sanchez, người đã chạy sang Mỹ lưu vong năm 2008, trong quyển sách "La Vie cachée de Fidel Castro" đã cáo buộc: "Cả cuộc đời, Fidel Castro khẳng định ông không có tài sản, chỉ có một chiếc lều câu cá. Thực tế, căn lều của lãnh đạo Cuba là một hệ thống biệt thự sang trọng, huy động những phương tiện hậu cần khổng lồ, chiếm trọn đảo Cayo Piedra mà giới lãnh đạo xã hội chủ nghĩa thường sang thăm Cuba ít ai biết."[80] Tuy nhiên, các nhà báo quốc tế từng tới phỏng vấn Fidel tại nhà ông đã bác bỏ thông tin này và cho biết: mặc dù được cung cấp thực phẩm và chăm sóc y tế tốt, Fidel không hề sống một cuộc sống xa hoa.[81]
Năm 2006, tạp chí Forbes từng ghi nhận Fidel có tài sản 900 triệu USD, tuy nhiên tạp chí này cũng thừa nhận ước tính này mang tính cảm quan hơn là khoa học. Sau đó, Fidel Castro đã giận dữ xuất hiện trên truyền hình để bác bỏ tuyên bố của tạp chí Forbes, gọi đó là "sự vu khống lố bịch". Chủ tịch Fidel Castro còn tuyên bố sẽ từ chức nếu Forbes chứng minh được ông có tài sản gửi ở nước ngoài, dù đó chỉ là 1 USD. Thống đốc Ngân hàng Trung ương Cuba Francisco Soberon cho rằng, Cơ quan Tình báo Mỹ đứng đằng sau thông tin trên tạp chí Forbes với mục đích bôi nhọ Fidel Castro. Tháng 5 năm 2006, nhà báo Mỹ George Galloway đã xuất hiện trên truyền hình Cuba để bảo vệ Castro. Ông nói: "Những người dân Cuba là những người duy nhất trên thế giới có một nhà lãnh đạo có thể nói rằng ông ta không có một đồng đôla riêng của mình."[46]
Đại tá Hồ Văn A nhớ lại chuyến thăm Việt Nam năm 1973, Chủ tịch Fidel Castro khi tới Quảng Bình, thấy một dân công nữ bị ngất đã cho dừng xe, lệnh cho Đại sứ quán Cuba tại Việt Nam lấy xe chở đi cấp cứu. Ngay sau đó, Fidel đã gọi điện về nước và yêu cầu sớm xúc tiến việc xây dựng một bệnh viện ngay tại khu vực này. Chỉ một thời gian ngắn, Bệnh viện Hữu nghị Việt Nam - Cuba đã ra đời ngay tại Đồng Hới, Quảng Bình. Khi về nước, Fidel vẫn nhớ tới người nữ dân công và đã gửi thuốc cùng danh thiếp kỷ niệm sang cho chị. Nhiều nhân chứng ngày ấy vẫn nhớ hình ảnh Fidel vóc dáng to lớn, mặc bộ quân phục màu xanh nhưng cử chỉ lại gần gũi đến bất ngờ.[82][83]
Fidel Castro nổi tiếng với giờ làm việc bận rộn, ông thường chỉ ngủ 3 hay 4 giờ mỗi ngày[84] Ông có một trí nhớ "phi thường", các bài phát biểu Castro thường trích dẫn các báo cáo và những cuốn sách ông đã đọc, ông có thể diễn thuyết về một chủ đề trong suốt nhiều giờ trước đám đông mà không cần tài liệu kèm theo[85] Ngay từ nhỏ, ông đã đam mê các loại vũ khí, nhất là súng[86] và ưa thích cuộc sống ở vùng nông thôn ngoại ô thành phố.[87]
Nói về động lực của đời mình, Fidel phát biểu:
“ |
Tôi đã bắt đầu cuộc cách mạng khi chỉ có 82 người theo mình. Nếu tôi phải bắt đầu lại, tôi chỉ cần 15 người hoặc thậm chí chỉ 10 người. 10 người và một niềm tin tuyệt đối. Không quan trọng là ta có bao nhiêu người, quan trọng là phải có niềm tin và phải có một kế hoạch mạch lạc. Đất nước của chúng tôi - đó phải là một thiên đường theo đúng ý nghĩa tinh thần của từ này. Tôi đã nhiều lần nói, thà chết trong thiên đường chứ không cần sống sót trong địa ngục. Cách mạng - đó không phải là cái giường rải đầy cánh hoa hồng. Đó là cuộc đấu tranh một mất một còn giữa quá khứ và tương lai."[88] |
” |
— Fidel Castro |
Các vụ ám sát nhằm vào Fidel Castro
Ủy ban Giáo hội tuyên bố đã tìm ra ít nhất tám nỗ lực của tình báo Mỹ (CIA) nhằm ám sát Fidel Castro trong giai đoạn 1960-1965. Fabian Escalante, nguyên giám đốc đã nghỉ hưu của cơ quan phản gián Cuba, người được giao nhiệm vụ bảo vệ Fidel Castro, ước tính số lượng các chương trình ám sát hoặc nỗ lực ám sát của Cơ quan tình báo Trung ương Mỹ nhắm vào Fidel là 638 (tính tới 2006).[89] Các nỗ lực ám sát rất đa dạng, bao gồm xì gà tẩm độc tố hoặc tẩm thuốc nổ, bút bi chứa một ống tiêm tẩm chất độc chết người, thuê mafia ám sát, và cả tẩm độc vào sứa biển... Một số âm mưu đã được miêu tả trong một bộ phim tài liệu với tựa đề 638 cách để giết Castro phát sóng vào năm 2006 bởi Channel 4 - kênh truyền hình dịch vụ công cộng của Anh.
Castro từng nói đùa: "Nếu sống sót sau các vụ ám sát cũng được trao huy chương Olympic, thì tôi nhất định sẽ giành được huy chương vàng."[90]
Qua đời và tưởng niệm
“ |
Tổng tư lệnh cách mạng Cuba - Fidel Castro qua đời lúc 22h29 ngày 25 tháng 11 năm 2016 giờ Cuba",
|
” |
Ngoài Cuba, 11 quốc gia khác cũng tuyên bố quốc tang để tưởng niệm ông: Bolivia (7 ngày)[91] Algérie (8 ngày)[92] Nicaragua (9 ngày)[93] Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên (3 ngày)[94] Guinea Xích Đạo (3 ngày)[95] Venezuela (3 ngày),[96] Uruguay (1 ngày)[97] và Việt Nam (1 ngày), Namibia để tang 3 ngày [54], Angola để tang 1 ngày[98], và Dominica[99]. Tại tang lễ ở Cuba, 70 nước đã cử lãnh đạo chính phủ đến viếng ông.
- Cựu Tổng Thư ký Liên Hợp Quốc Ban Ki-moon nói từ Ashgabat, Turkmenistan: "Tại thời điểm này của quốc tang, tôi cam kết sự ủng hộ của Liên Hợp Quốc để làm việc cùng với người dân của hòn đảo Cuba. Với sự lãnh đạo của cựu Chủ tịch Castro, Cuba đã tiến bộ không ngừng trong các lĩnh vực giáo dục và chăm sóc sức khỏe. Tôi hy vọng Cuba sẽ tiếp tục tiến trên con đường cải cách và thịnh vượng hơn. Fidel để lại một dấu ấn lớn trên đất nước của ông và về chính trị toàn cầu. Lý tưởng cách mạng của ông để lại vài tranh luận. Ông là một tiếng nói mạnh mẽ cho công bằng xã hội trong các cuộc thảo luận toàn cầu tại Đại hội đồng Liên hợp quốc và các diễn đàn quốc tế và khu vực."
- Cựu Tổng thư ký Liên Hiệp quốc Kofi Annan nói: "Hôm nay tôi thương tiếc cho sự mất mát của một người bạn, cố lãnh đạo Cuba Fidel Castro. Đảm bảo các phúc lợi cho nhân dân Cuba và sự độc lập của đất nước là định hướng chính trong suy nghĩ của Fidel Castro và nhiều hành động của Ngài. Cho dù ai đó có đồng ý với quan điểm chính trị của ông hay không, Fidel Castro vẫn là một trong những lãnh đạo đáng chú ý của Mỹ Latinh. Trong cuộc đời lâu dài của mình, ông đã vượt qua vô số nghịch cảnh, dù ông có thể chọn vô số con đường khác dễ dàng và thoải mái. Tôi đã gặp Fidel Castro nhiều lần trong những năm qua và đánh giá cao trí tuệ phi thường, đầu óc sắc bén của ông, và khả năng của ông để tham gia vào các cuộc đối thoại mang tính xây dựng. Vĩnh biệt Fidel!"[100]
Tổng thống Nga Vladimir Putin mô tả Castro là "một người bạn chân thành và đáng tin cậy của Nga" và là một "biểu tượng thời đại"[101]. Thủ tướng Ấn Độ Narendra Modi gọi ông là "một trong những nhân vật mang tính biểu tượng nhất của thế kỷ 20" và là một "người bạn tuyệt vời", trong khi Tổng thống Nam Phi Jacob Zuma ca ngợi Castro vì đã giúp đỡ người Nam Phi da đen trong cuộc đấu tranh chống phân biệt chủng tộc [102]. Bộ trưởng ngoại giao Tây Ban Nha gửi lời chia buồn: "Một con người có tầm quan trọng lớn lao trong lịch sử đã không còn, một người đàn ông mang về một bước ngoặt trong tiến trình phát triển của đất nước và có ảnh hưởng lớn trong khu vực. Là con của cha mẹ người Tây Ban Nha, cựu Tổng thống Castro luôn duy trì mối liên kết chặt chẽ với Tây Ban Nha qua mối quan hệ máu mủ và văn hóa" [103].
Tổng thống Mỹ Barack Obama (người ủng hộ quá trình bình thường hóa quan hệ giữa 2 nước) cho rằng "lịch sử sẽ ghi nhớ tác động to lớn của con người đặc biệt này đến thế giới xung quanh mình"[104] Ngược lại, Tổng thống Mỹ Donald Trump (người đảo ngược chính sách thân thiện của Obama) thì kịch liệt lên án Fidel, ông đã có bài tuyên bố nhân cái chết của Castro "Hôm nay, thế giới đánh dấu sự qua đời của một tên độc tài tàn nhẫn đã đàn áp chính người dân của mình trong gần 6 thập kỉ. Di sản của Fidel Castro là những cuộc hành quyết, bòn rút, khổ đau không tưởng, nghèo đói và sự đàn áp quyền con người. Trong khi Cuba vẫn còn là một hòn đảo phải sống dưới một chế độ độc tài toàn trị. Tôi hi vọng rằng ngày hôm nay đánh dấu một bước tiến xa khỏi sự kinh hoàng mà người Cuba đã phải chịu đựng trong một thời gian quá lâu, để hướng tới một tương lai mà nhân dân Cuba cuối cùng có thể được sống một cuộc sống tự do mà họ vô cùng xứng đáng."[105][106]. Nhiều người Cuba lưu vong ở Miami (Mỹ) cũng đã tổ chức ăn mừng trên đường phố ngay sau khi nhận được tin Castro qua đời [107].
Huân chương và danh hiệu
Tính tới 2010, Fidel đã được trao tặng 50 huân chương và danh hiệu các loại từ hơn 40 quốc gia trên thế giới:
- Anh hùng Liên Xô[108]
- Huân chương Lenin, 3 lần[109] 1972;[110] 1986 "vì những đóng góp cho tình hữu nghị giữa Liên Xô và Cuba".[111]
- Giải thưởng hòa bình Lenin (Liên Xô, 1961)
- Huân chương kỷ niệm 30 năm chiến thắng Chiến tranh Vệ quốc vĩ đại 1941-1945 (Liên Xô, 1975)[112]
- Huân chương Cách mạng Tháng Mười (Liên Xô, 1976)[113]
- Ngôi sao Cộng hòa Indonesia, Cấp 4
- Ngôi sao du kích (Indonesia, 1960)
- Huân chương ngôi sao Romania, Cấp 1 (1972)[114]
- Huân chương Sư tử trắng, Cấp 1 (Czechoslovakia, 1972)[115]
- Huân chương Georgi Dimitrov (Bulgaria, 1972)[116]
- Chữ Thập lớn của Huân chương Polonia Restituta (1973)[117]
- Huân chương Dũng cảm (Libya) (1977)
- Huân chương Somali, Cấp 1 (1977)[118]
- Huân chương Jamaica (1977)[119]
- Huân chương công đức Jamaica[120]
- Cấp cao nhất Huân chương danh dự Ethiopia (1978)[121]
- Giải thưởng hòa bình Jorge Dimitrov (Bulgaria, 1980)[122]
- Huân chương Sao Vàng (Việt Nam, 1982)
- Anh hùng Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên[123]
- Huân chương Quốc kỳ, cấp 1 (Triều Tiên, 1986)[123]
- Huân chương Karl Marx (Đông Đức)[124]
- Huân chương Đại bàng Aztec (Mexico, 1987)
- Huân chương vàng của Thượng viện Tây Ban Nha (1988)
- Huân chương Klement Gottwald (Czechoslovakia, 1989).[125]
- Huân chương Agostinho Neto (Angola, 1992)[126]
- Huân chương công đức Duarte, Sanchez và Mella, chữ thập vàng (Cộng hòa Dominican, 1998)[127]
- Huân chương Hảo Vọng, hạng nhất (Nam Phi, 1998)[128]
- Chữ thập Huân chương quốc gia Mali (1998)[129]
- Huân chương Hoàng tử Yaroslav xứ Wise (Ukraine, 2000), for medical assistance to victims of the Chernobyl disaster[130]
- Huân chương Độc lập của Qatar (15/9/2000)[131]
- Huân chương Cộng hòa Yemen (2000)[132]
- Huân chương giải phóng hạng nhất (Venezuela, October 2000)[133]
- Huân chương Agostura Congress (Venezuela, 2001)[134]
- Huân chương danh dự Quân Giải phóng Algeri (6/5/2001)[135]
- Huân chương Vương miện (Malaysia, 11/05/2001)[136]
- Huân chương Thành phố Buenos Aires (2003)[137]
- Huân chương lao động (Triều Tiên, 2006)[138]
- Huân chương Quốc kỳ cấp 1 (Triều Tiên, 2006) to "promote the reunification of the Korean peninsula and build socialism"[138]
- Huân chương Amilcar Cabral (Guinea xích đạo, 2007)[139]
- Kỷ niệm chương thể thao (Bộ thể thao Ecuador, 2007)[140]
- Huân chương Welwitschia Mirabilis cổ đại (Namibia, 2008) "vì những đóng góp cho sự nghiệp giải phóng nhân dân châu Phi"[141]
- Giải thưởng Ubuntu (Hội đồng di sản quốc gia Nam Phi, 2008) vì đã "dành trọn cuộc đời cho đoàn kết và đạo đức, nêu bật tầm quan trọng của các giá trị nhân bản và sự cống hiến cho nhân loại"[142]
- Huân chương danh dự Dominica (2008) vì những "đóng góp cho nền độc lập của Dominica"[143]
- Huân chương Omar Torrijos Herrera hạng nhất (Panama, 2009)[144]
- Huân chương Quetzal hạng nhất (2009) "nhằm tôn vinh hơn 17 triệu lượt khám và hơn 40.000 ca phẫu thuật được thực hiện bởi các bác sĩ Cuba vì lợi ích của người dân Guatemala"[145]
- Huân chương O. R. Tambo hạng Vàng của Nam Phi "vì những đóng góp vào công cuộc xóa bỏ chủ nghĩa thực dân, phân biệt chủng tộc và bất bình đẳng trong xã hội loài người"[146]
- Huân chương Danh dự và Vinh quang (Giáo hội Chính thống giáo Nga, ngày 19 tháng 10 năm 2008) - vì những đóng góp cho việc tăng cường hợp tác giữa các tôn giáo.
- Huân chương Đại bàng Zambia, Cấp 1 (Zambia, 2009) "vì đã truyền cảm hứng cho những người đấu tranh vì phẩm giá và bình đẳng"[147]
- Huân chương Merit (Ukraine) hạng nhất (Ukraine, 2010) "vì những đóng góp quan trọng để khôi phục sức khỏe cho trẻ em vùng Chernobyl, sau tai nạn vào năm 1986"[148]
- Giải thưởng tướng Eloy Alfaro (Ecuador, May 2010) "cho những giá trị và phẩm chất đặc biệt"[149]
- Huân chương Đông Timor hạng nhất (2010) "vì những đóng góp của Cuba về y tế và giáo dục"[150]
Biểu tượng công cộng
Theo nguyện vọng của cố lãnh đạo Fidel Castro Ruz, sau khi ông chết, không có trường học, bệnh viện, công trình công cộng nào được đặt tên ông. Tương tự như vậy, Cuba cũng không dựng tượng đài ông. Không có địa danh nào ở Cuba mang tên Fidel.[151]
Tuy nhiên ở nhiều nước khác, nhiều đường phố, trường học, quảng trường... mang tên ông.
- Fidel Castro Street (Pretoria, Nam Phi);[152]
- Fidel Castro Street (Cape Town, South Africa);[153]
- Fidel Castro Street (Ladysmith, South Africa);[154]
- Fidel Castro Street (Klerksdorp, South Africa);[155]
- Fidel Castro Ruz House (of Departament of Health of Limpopo, South Africa);[156]
- Fidel Castro Street (Conakry, Guinea);[157]
- Fidel Castro Street (Windhoek, Namibia);[158][159]
- Fidel Castro School (Windhoek, Namibia);[160]
- Fidel Castro Secondary School (Wawi, Tanzania);[161]
- Escola Fidel Castro (Tombwa, Angola);[162]
- Escola Primária Nº 5001 Fidel Castro (Viana, Angola);[163]
- Escola Primária Fidel Castro (Xai-Xai, Mozambique);[164]
- Campus Fidel Castro (Montpelier, Jamaica);[165]
- Avenida Comandante Fidel Castro (Luanda, Angola);[166]
- Parque Fidel Castro (Oleiros, Galicia)[167] with statue of him.[168]
- Fidel Castro School in Katutura, Namibia
- Công viên Fidel (Quảng Trị, Việt Nam)[169]
Những câu nói nổi tiếng
“ | Vì Việt Nam, Cuba sẵn sàng hiến dâng cả máu của mình! | ” |
— Trong cuộc mít tinh ngày 2 tháng 1 năm 1966 chào mừng lần thứ 7 Cách mạng Cuba thành công.[170][171][172] |
“ | Nhân dân Cuba sẵn sàng đổ đến giọt máu cuối cùng để kề vai chiến đấu cạnh người anh em Việt Nam | ” |
— nói về cuộc Chiến tranh biên giới Việt–Trung 1979 |
“ | Họ nói về sự thất bại của chủ nghĩa xã hội, nhưng sự thành công của chủ nghĩa tư bản ở Châu Phi, Châu Á và Nam Mỹ đang ở đâu? Thành công ở đâu khi nó (chủ nghĩa tư bản) đang tạo ra đói nghèo, bùng nổ dân số, chiến tranh và phá hủy sinh thái (tại các khu vực đó)? | ” |
— Nhận xét về trào lưu phê phán chủ nghĩa xã hội sau sự sụp đổ của Liên Xô[174] |
“ | Theo lẽ tự nhiên, tôi thù địch với bất cứ cái gì mang vẻ của sự sùng bái cá nhân, và như bạn thấy, như tôi đã nói với bạn ở Cuba không có bất cứ trường học, nhà máy, bệnh viện hay tòa nhà nào mang tên tôi...Tôi cũng không thích đặt cho tôi chức danh và vị thế, như "Chủ tịch Hội đồng Nhà nước và Bộ trưởng" hay "Bí thư thứ nhất của Đảng". Tôi có nhiều xung đột với người của tôi bởi vì tất cả những gì tôi không thích. Nhưng với tôi, may mắn thay, mọi người gọi tôi là Fidel. Và tôi là người đầu tiên khuyến khích tư duy phê phán..., và tôi đã chiến đấu không nhượng bộ mỗi biểu hiện của sự tôn sùng cá nhân hay thần thánh hóa. Các phương tiện truyền thông đại chúng, trong tay nhà nước, thường phục vụ để tuyên truyền. Chúng tôi muốn sử dụng các phương tiện để nâng cao trình độ văn hóa nói chung.[175] | ” |
Chú thích
- ^ Cựu chủ tịch Cuba Fidel Castro qua đời.
- ^ Cuban revolutionary icon Fidel Castro dies: President.
- ^ a b c Fidel Castro - Cuộc đời tôi. Một trăm giờ với Fidel Castro
- ^ a b c Thomas M. Leonard. Fidel Castro: A Biography. ISBN 0-313-32301-1.
- ^ DePalma, Anthony (2006). The Man Who Invented Fidel. Public Affairs.
- ^ Bockman, Larry James (1984). “The Spirit Of Moncada: Fidel Castro's Rise To Power, 1953 - 1959”. Truy cập ngày 13 tháng 6 năm 2006.
- ^ Sweig, Julia E. (2002). Inside the Cuban Revolution. Harvard University Press. ISBN 0-674-00848-0.
- ^ Audio: Cuba Marks 50 Years Since 'Triumphant Revolution' by Jason Beaubien, NPR All Things Considered, ngày 1 tháng 1 năm 2009
- ^ Encyclopedia Britannica entry for Fulgencio Batista
- ^ “1959: Castro sworn in as Cuban PM”. BBC News. Truy cập ngày 6 tháng 6 năm 2006.
- ^ Fidel Castro: Cuban leader condemned as 'dictator' who presided over executions and human rights abuses, Independent, ngày 26 tháng 11 năm 2016
- ^ “Spanish newspaper gives more details on Castro condition”. CNN. Truy cập ngày 17 tháng 1 năm 2007.
- ^ Castro, Fidel (19 tháng 2 năm 2008). “Mensaje del Comandante en Jefe” (PDF). Granma (bằng tiếng Tây Ban Nha). Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 24 tháng 11 năm 2006. Truy cập ngày 19 tháng 2 năm 2008.
- ^ Castro, Fidel (19 tháng 2 năm 2008). “Message from the Commander in Chief”. Granma. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 1 năm 2009. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2008.
- ^ “Raul Castro named Cuban president”. BBC. ngày 24 tháng 2 năm 2008. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2008.
Raul, 76, has in effect been president since and the National Assembly vote was seen as formalising his position.
- ^ a b Quirk 1993. p. 424.
- ^ a b http://news.bbc.co.uk/2/hi/africa/165566.stm.
- ^ a b “Cuba: Fidel Castro's Abusive Machinery Remains Intact”. Human Rights Watch.
- ^ 'The old man is dead': Fidel Castro's death sparks celebrations on streets of Miami | World news | The Guardian
- ^ “Nhà cách mạng vĩ đại Cuba Fidel Castro qua đời tuổi 90”.
- ^ a b Chủ tịch Fidel Castro từ chức
- ^ a b Claudia Furiati: Fidel Castro: La historia me absolverá. S. 48f, Plaza Janés, Barcelona 2003 (spanisch)
- ^ Michael Zeuske: Kuba im 21. Jahrhundert. Rotbuch Verlag, 2012, S. 86
- ^ a b “35 Countries Where the U.S. Has Supported Fascists, Drug Lords and Terrorists | Alternet”. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 9 năm 2015. Truy cập ngày 12 tháng 9 năm 2015.
- ^ “1958: Battle of La Plata (El Jigüe)”. Cuba 1952–1959. ngày 15 tháng 12 năm 2009. Truy cập ngày 26 tháng 6 năm 2013.
- ^ “Castro visits the United States - Apr 15, 1959 - HISTORY.com”. HISTORY.com. Truy cập 12 tháng 8 năm 2016.
- ^ "Year in Review – 1959". UPI archive. Truy cập ngày 24 tháng 12 năm 2011.
- ^ a b VietNamNet
- ^ Bethell (1993)
- ^ Kellner 1989, p. 54-55.
- ^ “Äiá»u chÆ°a biết vá» xe tÄng huyá»n thoại T”. Báo điện tử Người đưa tin. Truy cập 9 tháng 3 năm 2015. C1 control character trong
|tiêu đề=
tại ký tự số 2 (trợ giúp) - ^ Anderson (1997), p.509
- ^ “Victorious Castro bans elections”. BBC News. 1961. Truy cập ngày 19 tháng 5 năm 2006. Nguyên văn: The revolution has no time for elections. There is no more democratic government in Latin America than the revolutionary government.... If Mr. Kennedy does not like Socialism, we do not like imperialism. We do not like capitalism.
- ^ Cuba is poor, but who is to blame – Castro or 50 years of US blockade?
- ^ truy cập ngày 13 tháng 2 năm 2010.
- ^ Tính trước nguy cơ 20 năm, suy ngẫm về Đảng Cộng sản Liên Xô mất đảng. Nhà xuất bản chính trị quốc gia. Trang 28
- ^ Nicolás Crespo and Santos Negrón Díaz. “Cuban tourism in 2007: economic impact” (PDF). University of Texas. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 30 tháng 10 năm 2007. Truy cập ngày 9 tháng 7 năm 2006.
- ^ “Background Note: Cuba”. U.S. Department of State. 2005. Truy cập ngày 9 tháng 7 năm 2006.
- ^ “Cuba tuyên bố tổng thiệt hại 116,8 tỷ USD vì cấm vận”. VnEconomy, báo điện tử thuộc nhóm Thời báo Kinh tế Việt Nam. Truy cập 9 tháng 3 năm 2015.
- ^ World Economic Outlook Database, October 2014, International Monetary Fund. Database updated on ngày 7 tháng 10 năm 2014. Truy cập on ngày 8 tháng 10 năm 2014.
- ^ “Human Development Report 2014”. Truy cập 9 tháng 3 năm 2015.
- ^ Cuộc đời Chủ tịch Fidel Castro qua ảnh
- ^ Chủ tịch Cuba Fidel Castro nghỉ hưu
- ^ “Cuba Facts and FAQs | Visit Cuba”. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 1 năm 2018. Truy cập ngày 6 tháng 12 năm 2015.
- ^ Pedro e os lobos: os anos de chumbo na trajetória de um guerrilheiro urbano - João Roberto Laque - Google Sách
- ^ a b The Castropedia: Fidel's Cuba in facts and figures | The Independent
- ^ “Liên hợp quốc hoan nghênh Cuba hỗ trợ y tế chống dịch Ebola”. Báo điện tử Nhân dân. Truy cập 9 tháng 3 năm 2015.
- ^ “Cuba tiếp tục cử hàng trăm y bác sĩ tới giúp Tây Phi chống Ebola”. Báo Điện tử Đài Tiếng nói Việt Nam. Truy cập 9 tháng 3 năm 2015.
- ^ “Ngoại giao y tế Cuba "được mùa"”. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 12 năm 2014. Truy cập 9 tháng 3 năm 2015.
- ^ Cuba ngăn chặn được HIV từ mẹ sang con - Báo Quảng Nam Online
- ^ Bao giờ Việt Nam mới được như Cuba? | Ký Giả - tin tức người Việt hải ngoại
- ^ De Angola al ébola, la impronta cubana en África
- ^ As we mourn Fidel Castro, it is time Africa’s youth rose up against kleptocracies
- ^ a b “Namibia declares three days of mourning for Castro”. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 7 năm 2018. Truy cập ngày 4 tháng 12 năm 2016.
- ^ Angolan leaders remember Fidel Castro fondlyAngolan leaders remember Fidel Castro fondly
- ^ Tinh thần đoàn kết quốc tế Cuba, hiện tượng đặc biệt trong lịch sử quan hệ quốc tế[liên kết hỏng]
- ^ Smith, Wayne S. (ngày 2 tháng 2 năm 2007). “Castro's Legacy”. TomPaine.com. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 10 năm 2007. Truy cập ngày 7 tháng 11 năm 2012.
- ^ Jay Mallin. Covering Castro: rise and decline of Cuba's communist dictator. Transaction Publishers. ISBN 9781560001560.
- ^ a b D. H. Figueredo (2002). The complete idiot's guide to Latino history and culture.
- ^ a b “Farewell Fidel: The man who nearly started World War III”. Daily Mail.
- ^ a b Catan, Thomas. “Fidel Castro bows to illness and age as he quits centre stage after 50 years - Times Online”. www.timesonline.co.uk. Truy cập ngày 22 tháng 4 năm 2009.
- ^ a b “Fidel's fade-out”.
- ^ “Fidel Castro: A progressive but deeply flawed leader”. Amnesty International. ngày 26 tháng 11 năm 2016. Truy cập ngày 5 tháng 12 năm 2016.
- ^ www.cpv.org.vn Fidel Castro
- ^ Coltman 2003. p. 14.
- ^ Bourne 1986. p. 273.
- ^ Von Tunzelmann 2011. p. 94.
- ^ Coltman 2003. p. 247.
- ^ Bourne 1986. p. 295.
- ^ Admservice (ngày 8 tháng 10 năm 2000). “Fidel Castro's Family”. Latinamericanstudies.org. Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2010.
- ^ Ann Louise Bardach: Cuba Confidential. p. 67. "One knowledgeable source claims that Mirta returned to Cuba in early 2002 and is now living with Fidelito and his family."
- ^ a b c Jon Lee Anderson, "Castro’s Last Battle: Can the revolution outlive its leader?" The New Yorker, ngày 31 tháng 7 năm 2006. 51.
- ^ Boadle, Anthony (ngày 8 tháng 8 năm 2006). “Cuba's first family not immune to political rift”. Reuters. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 10 năm 2007. Truy cập ngày 10 tháng 8 năm 2006.
- ^ Fernandez, Alina (1997). Castro’s Daughter, An Exile’s Memoir of Cuba. St. Martin’s Press. ISBN 031224293X.
- ^ Roberto Duarte “VIDA SECRETA DEL TIRANO CASTRO”. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 12 năm 2006. Truy cập ngày 4 tháng 8 năm 2009.. CANF.org. ngày 29 tháng 10 năm 2003
- ^ Cuba confidential: Love and Vengeance in Miami and Havana By Ann Louise Bardach; Random House, Inc., 2002; ISBN 978-0-375-50489-1
- ^ Quirk 1993. p. 15.
- ^ Quirk 1993. p. 231.
- ^ “The Bitter Family (page 1 of 2)”. TIME. ngày 10 tháng 7 năm 1964. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 8 năm 2013. Truy cập ngày 19 tháng 2 năm 2008.
- ^ “Fidel Castro: Hoàng đế Cuba đội lốt cách mạng ?”. RFI. 24 tháng 5 năm 2014. Đã bỏ qua văn bản “http://www.viet.rfi.fr/quoc-te/20140524-bo-mat-that-cua-fidel-castro-nha-cach-mang-hay-hoang-de-cuba” (trợ giúp)
- ^ “Book claims that Fidel Castro lived the life of luxury in Cuba”. Mail Online. Truy cập 9 tháng 3 năm 2015.
- ^ Ký ức về Fidel Castro Minh Long (tổng hợp). Petrotimes 19:39 | 17/09/2013. Lưu trữ 20/09/2013
- ^ Ký ức cô gái được lãnh tụ Fidel Castro cứu mạng Lê Giáp - Phạm Phạm. Báo Người đưa tin 27.12.2012
- ^ Coltman 2003. p. 219
- ^ Quirk 1993, tr. 352.
- ^ Quirk 1993. pp. 10, 255.
- ^ Quirk 1993. p. 5.
- ^ “Những câu chuyá»n Äá»i thÆ°á»ng của lãnh tụ Fidel Castro”. Báo điện tử Người đưa tin. Truy cập 9 tháng 3 năm 2015. C1 control character trong
|tiêu đề=
tại ký tự số 20 (trợ giúp) - ^ Escalante Font, Fabián. Executive Action: 634 Ways to Kill Fidel Castro. Melbourne: Ocean Press, 2006.
- ^ “The Castropedia: Fidel's Cuba in facts and figures”. The Independent. ngày 17 tháng 1 năm 2007. Truy cập ngày 1 tháng 9 năm 2013.
- ^ “Bolivia decreta duelo nacional por la muerte de Fidel Castro”. Prensa Latina (bằng tiếng Tây Ban Nha). ngày 28 tháng 11 năm 2016. Truy cập ngày 28 tháng 11 năm 2016.
- ^ Lỗi chú thích: Thẻ
<ref>
sai; không có nội dung trong thẻ ref có tênAlgeria
- ^ “Nicaragua decreta nueve días de duelo nacional por muerte de Fidel Castro”. El Nuevo Diario (bằng tiếng Tây Ban Nha). ngày 26 tháng 11 năm 2016. Truy cập ngày 28 tháng 11 năm 2016.
- ^ “North Korea declares 3-day mourning for 'close friend and comrade' Fidel Castro”. RT. ngày 28 tháng 11 năm 2016. Truy cập ngày 28 tháng 11 năm 2016.
- ^ “Duelo nacional en Guinea Ecuatorial por fallecimiento de Fidel Castro”. Prensa Latina (bằng tiếng Tây Ban Nha). ngày 29 tháng 11 năm 2016. Truy cập ngày 29 tháng 11 năm 2016.
- ^ “Gobierno de Venezuela declara tres días de duelo por fallecimiento de Fidel Castro”. Globovisión (bằng tiếng Tây Ban Nha). ngày 26 tháng 11 năm 2016. Truy cập ngày 28 tháng 11 năm 2016.
- ^ “El mundo junto a un gigante” (bằng tiếng Tây Ban Nha). Granma.
- ^ “Angolan President declares one-day national mourning in Fidel Castro's memory”. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 11 năm 2018. Truy cập ngày 4 tháng 12 năm 2016.
- ^ Dominica declares national mourning for Fidel Castro
- ^ “How Kofi Annan and over a dozen African leaders mourned Fidel Castro”. Africa News. ngày 29 tháng 11 năm 2016. Truy cập ngày 29 tháng 11 năm 2016.
- ^ “Former president of Cuba Fidel Castro dies aged 90”. Daily Mail.
- ^ Evans, Jenni (ngày 26 tháng 11 năm 2016). “Castro dedicated his life to freeing the oppressed – Zuma”. Cape Town, South Africa: News24. Truy cập ngày 26 tháng 11 năm 2016.
- ^ “Rajoy: Spain is especially united in grief with Cuba over the loss of a great historical figure”. Think Spain. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 11 năm 2016. Truy cập ngày 13 tháng 3 năm 2018.
- ^ Trump and Obama offer divergent responses to death of Fidel Castro | World news | The Guardian
- ^ “Donald Trump calls Fidel Castro 'brutal dictator'”. BBC News. ngày 26 tháng 11 năm 2016. Truy cập ngày 5 tháng 11 năm 2016.
- ^ http://insider.foxnews.com/2016/11/26/reaction-fidel-castro-death-cuban-dictator-age-90-trump-trudeau-carter-cruz
- ^ Ovalle, David; Flechas, Joey; Bergengruen, Vera; Frías, Carlos; Mazzei, Patricia (ngày 26 tháng 11 năm 2016). “Cuban exiles pour onto Miami streets to celebrate Fidel Castro's death”. The Miami Herald. Truy cập ngày 26 tháng 11 năm 2016.
- ^ Кастро Рус Фидель Алехандро, Герой Советского Союза
- ^ Concediendo a Fidel Castro Ruz el título de Héroe de la Unión Soviética, La Prensa.
- ^ Fidel Castro
- ^ Un día como hoy: 11 de noviembre
- ^ CASTRO, PCC OFFICIALS RECEIVE SOVIET DECORATION
- ^ Биография Фиделя Кастро
- ^ Castro Speech Data Base
- ^ Castro to keep his state and university distinctions
- ^ Dimitrov Order Presentation to Fidel Castro
- ^ Visita de la delegación del gobierno polaco a Cuba el 25 de abril de 1973.
- ^ The International Who's Who, 2004, Europa Publications
- ^ Discurso pronunciado por Fidel Castro Ruz en el acto en que le fue impuesta la "Orden de Jamaica", la más alta distinción nacional que se confiere a gobernantes de otros países, en Kingston, Jamaica, ngày 16 tháng 10 năm 1977.
- ^ “Order of Merit (OM)”. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 12 năm 2009. Truy cập ngày 7 tháng 2 năm 2014.
- ^ «Fidel's visit to Ethiopia», September 24 edition, 1978, p. 2, Granma.
- ^ Breve biografía de Fidel Castro
- ^ a b Confiere la República Popular Democrática de Corea a Fidel, Orden Héroe del Trabajo
- ^ Kuba: Das Ende der Ära Castro. Fidels Finale: Jetzt gibt Castro, schwer krank, die Macht ab
- ^ 1989 Speech Czechoslovak - Jakes Presents Award To Castro
- ^ Discurso pronunciado por el Comandante en Jefe Fidel Castro Ruz en el acto de imposición de la Orden "Agostinho Neto", efectuado en el Palacio de la Revolución, el 9 de julio de 1992.
- ^ Discurso pronunciado por Fidel Castro Ruz al recibir la Orden del Mérito de Duarte, Sánchez y Mella en el grado Gran Cruz Placa de Oro e imponer al Presidente de la República Dominicana, Dr. Leonel Fernández, la Orden José Martí. Santo Domingo, ngày 22 tháng 8 năm 1998.
- ^ Discurso pronunciado por el Comandante en Jefe Fidel Castro Ruz, Primer Secretario del Comité Central del Partido Comunista de Cuba y Presidente de los Consejos de Estado y de Ministros, en el acto de imposición de la Orden de Buena Esperanza, efectuado en Ciudad del Cabo, Sudáfrica, el día 4 de septiembre de 1998.
- ^ “Breves de Cuba”. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 8 năm 2013. Truy cập ngày 7 tháng 2 năm 2014.
- ^ “Asistencia a los niños en Cuba”. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 7 tháng 2 năm 2014.
- ^ The Amir visit Cuba
- ^ “CUBA IN THE MIDDLE EAST: 2000-2002”. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 11 năm 2011. Truy cập ngày 7 tháng 2 năm 2014.
- ^ “La Guerra Sucia Sobra”. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 8 năm 2013. Truy cập ngày 7 tháng 2 năm 2014.
- ^ Discurso pronunciado al recibir la Orden Congreso de Angostura, en la Plaza Bolívar, Ciudad Bolívar, Venezuela, el 11 de agosto del 2001.
- ^ “Reciben condecoraciones Presidentes de Cuba y Argelia”. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 5 năm 2004. Truy cập ngày 7 tháng 2 năm 2014.
- ^ “Rey malasio condecoró a Fidel”. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 5 năm 2004. Truy cập ngày 7 tháng 2 năm 2014.
- ^ Fidel Castro percibe clima de "optimismo" en Argentina
- ^ a b Fidel Castro recibe condecoraciones de Corea del Norte
- ^ Otorgan medalla "Amílcar Cabral" a Fidel Castro
- ^ Ecuador otorga a Fidel Castro la Medalla al Mérito Deportivo
- ^ Conceden en Namibia condecoración a Fidel Castro
- ^ Otorgado a líder cubano Fidel Castro Premio Ubuntu, de Sudáfrica
- ^ “Fidel Castro to receive Dominica's highest award”. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 2 năm 2014. Truy cập ngày 7 tháng 2 năm 2014.
- ^ “Torrijos condecora a Fidel Castro y recibe medalla cubana”. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 7 tháng 2 năm 2014.
- ^ Conceden a Fidel Castro la Orden del Quetzal de Guatemala
- ^ Sudáfrica impondrá a Fidel Castro su condecoración de mayor grado
- ^ “Distinguen a Fidel Castro con Orden Águila de Zambia”. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 7 tháng 2 năm 2014.
- ^ Yanukóvich condecora a Fidel y Raúl Castro por ayuda consecuencias Chernóbil
- ^ Legislativo ecuatoriano reconoce méritos e impronta de Fidel
- ^ “Fidel Castro recibe la mayor distinción de Timor Oriental”. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 7 năm 2013. Truy cập ngày 7 tháng 2 năm 2014.
- ^ Nada en Cuba llevará el nombre de Fidel Castro
- ^ “National Senior Certificate: Grade 12”. Education.gov.za. Truy cập ngày 26 tháng 11 năm 2016.
- ^ “Places close by Fidel Castro Street Khayelitsha Western Cape South Africa”. Callupcontact.com. Truy cập ngày 26 tháng 11 năm 2016.
- ^ “Legal Notice No. 30682, 25 Jan 2008, Vol 511 (Part 1, 2), Page 73”. Greengazette.co.za. Truy cập ngày 26 tháng 11 năm 2016.
- ^ “2694 Fidel Castro Street, Tigane Property valuations: Property price, trends, statistics, valuation and sales history”. Property24.com. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 11 năm 2016. Truy cập ngày 26 tháng 11 năm 2016.
- ^ “Department of health buildings renamed”. Limpopo Online. ngày 23 tháng 5 năm 2016. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 9 năm 2016. Truy cập ngày 25 tháng 5 năm 2016.
- ^ “Conakry” (PDF). Codesria.org. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 23 tháng 9 năm 2015. Truy cập ngày 26 tháng 11 năm 2016.
- ^ “Map of Windhoek Streets Renamed”. Map-of-namibia.com. ngày 25 tháng 3 năm 2013. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 8 năm 2019. Truy cập ngày 26 tháng 11 năm 2016.
- ^ “Fidel Castro Street sight in Windhoek, Namibia travel guide”. Tripwolf.com. Truy cập ngày 26 tháng 11 năm 2016.
- ^ MINREX (ngày 19 tháng 11 năm 2013). “Recibe escuela "Fidel Castro" donativo de la República Bolivariana de Venezuela” (bằng tiếng castilian). Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 12 năm 2016. Truy cập ngày 4 tháng 12 năm 2016.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
- ^ MINREX (ngày 14 tháng 3 năm 2013). “Visita Embajador de Cuba la isla de Pemba” (bằng tiếng castilian). Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 12 năm 2016. Truy cập ngày 4 tháng 12 năm 2016.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
- ^ MINREX (ngày 26 tháng 3 năm 2013). “Estudiantes de la escuela "Fidel Castro" en Tombwa, Angola, dan la bienvenida a delegación cubana” (bằng tiếng castilian). Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 12 năm 2016. Truy cập ngày 4 tháng 12 năm 2016.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
- ^ “Niños angoleños participan en concurso por cumpleaños de Fidel Castro”. Prensa Latina (bằng tiếng castillian). ngày 5 tháng 11 năm 2016. Truy cập ngày 11 tháng 11 năm 2016.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
- ^ “UNICEF Moçambique”. Unicef.org. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 3 năm 2009. Truy cập ngày 26 tháng 11 năm 2016.
- ^ Hines, Horace (ngày 13 tháng 9 năm 2015). “Portia hails Fidel Castro campus”. Jamaica Observer. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 8 năm 2016. Truy cập ngày 20 tháng 9 năm 2015.
- ^ “Via expressa Cabolombo passa a denominar-se Avenida Comandante Fidel Castro”. TPA (bằng tiếng Bồ Đào Nha). ngày 3 tháng 12 năm 2016. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 1 năm 2017. Truy cập ngày 4 tháng 12 năm 2016.
- ^ “El Parque das Galeras de Oleiros pasará a llamarse Parque Fidel Castro”. El Progreso (bằng tiếng castilian). ngày 3 tháng 12 năm 2016. Truy cập ngày 4 tháng 12 năm 2016.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
- ^ “Oleiros inaugura a estatua de Fidel Castro”. Tempos Galegos (bằng tiếng galician). ngày 29 tháng 11 năm 2016. Truy cập ngày 4 tháng 12 năm 2016.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
- ^ Chính thức khánh thành công viên Fidel Castro tại Quảng Trị
- ^ Tình nghĩa sắt son Việt Nam - Cuba mãi mãi tỏa sáng
- ^ Cuba coi thắng lợi của VN là thắng lợi của mình
- ^ Tiếp tục phát triển quan hệ hữu nghị Việt Nam-Cuba
- ^ Fidel Castro trong ký ức một đại sứ
- ^ http://lanic.utexas.edu/project/castro/db/1991/19910604-1.html
- ^ Fidel Castro e Ignacio Ramonet dialogan sobre la prensa en Cuba
Sách tiểu sử
- Azicri, Max (2009). “The Castro-Chávez Alliance”. Latin American Perspectives. 36 (1). tr. 99–110.
- Bardach, Ann Louise (2007). Cuba Confidential: Love and Vengeance in Miami and Havana. New York: Random House. ISBN 978-0-307-42542-3.
- Bourne, Peter G. (1986). Fidel: A Biography of Fidel Castro. New York City: Dodd, Mead & Company. ISBN 978-0396085188.
- Castro, Fidel (2009). My Life: A Spoken Autobiography. Ramonet, Ignacio (interviewer). New York: Scribner. ISBN 978-1416562337.
- Coltman, Leycester (2003). The Real Fidel Castro. New Haven and London: Yale University Press. ISBN 978-0300107609.
- Draper, Theodore (1965). Castroism: Theory and Practice. New York: Praeger.
- Evenson, Fredric (2010). “A Deeper Shade of Green: The Evolution of Cuban Environmental Law and Policy”. Golden Gate University Law Review. 28 (3). tr. 489–525.
- Franqui, Carlos (1984). Family Portrait with Fidel. New York: Random House First Vintage Books. ISBN 0-394-72620-0.
- Geyer, Georgie Anne (1991). Guerrilla Prince: The Untold Story of Fidel Castro. New York City: Little, Brown and Company. ISBN 978-0316308939.
- Gott, Richard (2004). Cuba: A New History. New Haven and London: Yale University Press. ISBN 978-0300104110.
- Guerra, Lillian (2012). Visions of Power in Cuba: Revolution, Redemption, and Resistance, 1959–1971. Chapel Hill: University of North Carolina Press. ISBN 978-1469618869.
- Kozloff, Nicholas (2008). Revolution!: South America and the Rise of the New Left. New York: Palgrave Macmillan. ISBN 978-0-230-61754-4.
- Lecuona, Rafael A. (1991). “Jose Marti and Fidel Castro”. International Journal on World Peace. 8 (1). tr. 45–61. JSTOR 20751650.
- Mallin, Jay (1994). Covering Castro: Rise and Decline of Cuba's Communist Dictator. Piscataway: Transaction Publishers. ISBN 978-1560001560.
- Marcano, Christina; Barrera Tyszka, Alberto (2007). Hugo Chávez: The Definitive Biography of Venezuela's Controversial President. New York: Random House. ISBN 978-0679456667.
- Quirk, Robert E. (1993). Fidel Castro. New York and London: W.W. Norton & Company. ISBN 978-0393034851.
- Ros, Enrique (2006). El Clandestinaje y la Lucha Armada Contra Castro. Miami: Ediciones Universal. ISBN 1-59388-079-0.
- Sampson, Anthony (1999). Mandela: The Authorised Biography. HarperCollins. ISBN 978-0006388456.
- Skierka, Volka (2006). Fidel Castro: A Biography. Cambridge: Polity. ISBN 978-0745640815.
- Sivak, Martín (2010). Evo Morales: The Extraordinary Rise of the First Indigenous President of Bolivia. New York: Palgrave MacMillan. ISBN 978-0-230-62305-7.
- Sondrol, Paul C. (1991). “Totalitarian and Authoritarian Dictators: A Comparison of Fidel Castro and Alfredo Stroessner”. Journal of Latin American Studies. 23 (3): 599–620. doi:10.1017/S0022216X00015868. JSTOR 157386.
- Von Tunzelmann, Alex (2011). Red Heat: Conspiracy, Murder, and the Cold War in the Caribbean. New York City: Henry Holt and Company. ISBN 978-0805090673.
- Whittle, Daniel; Rey Santos, Orlando (2006). “Protecting Cuba's Environment: Efforts to Design and Implement Effective Environmental Laws and Policies in Cuba” (PDF). Cuban Studies. 37. tr. 73–103. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 19 tháng 8 năm 2016. Truy cập ngày 30 tháng 9 năm 2015.
- Wickham-Crowley, Timothy P. (1990). Exploring Revolution: Essays on Latin American Insurgency and Revolutionary Theory. Armonk and London: M.E. Sharpe. ISBN 978-0873327053.
- Wilpert, Gregory (2007). Changing Venezuela by Taking Power: The History and Policies of the Chávez Government. London and New York: Verso. ISBN 978-1844675524.
Liên kết ngoài
Bài viết này sử dụng liên kết ngoài có thể không tuân theo quy định hoặc nguyên tắc của Wikipedia. (April 2015) |
Tập tin phương tiện từ Commons | |
Tin tức từ Wikinews | |
Danh ngôn từ Wikiquote | |
Văn kiện từ Wikisource | |
Dữ liệu từ Wikidata |
- CAXTƠRÔ F. tại Từ điển bách khoa Việt Nam
- Fidel Castro (political leader of Cuba) tại Encyclopædia Britannica (tiếng Anh)
- Fidel Castro trên DMOZ
Trực tiếp liên quan đến Fidel Castro
- Lưu trũ về Fidel Castro bằng 6 thứ tiếng
- Fidel Castro trên Marxists Internet Archive.
- Các phát biểu của Castro
- "We Don't Hope for Favors from the Worst of Empires" Lưu trữ 2009-12-09 tại Wayback Machine
- "Where Have All the Bees Gone?" Lưu trữ 2010-02-18 tại Wayback Machine
- "In Spite of Everything: Reflections on the Pan-American Games" Lưu trữ 2009-12-01 tại Wayback Machine
- http://www.counterpunch.org/castro08062007.html Lưu trữ 2009-12-01 tại Wayback Machine
- "The Palestinian Holocaust in Gaza"
- Fidel Castro in His Own Words Lưu trữ 2011-09-27 tại Wayback Machine
Hình ảnh
- Fidel Castro trên IMDb
- Bản mẫu:Imdb character
- Fidel Castro: A Life in Pictures – trình chiếu ảnh của BBC News
- Fidel Castro's Five Decades in Power – The Washington Post
- Fidel Castro Resigns as President – slideshow by New York Times
Về Fidel Castro
- Fidel Castro: From Rebel to El Presidente – niên biểu của NPR
- Arthur Miller: A Visit With Castro Lưu trữ 2009-12-23 tại Wayback Machine, The Nation, 24/12/2003
- BBC Video: Fidel Castro Visits Boyhood Home of Che Guevara
- New York Times – Interactive Feature: Three Days With Fidel
- PBS American Experience Lưu trữ 2016-12-04 tại Wayback Machine Trang tương tác về Fidel Castro
- NPR Audio: Cuba's Castro an Inspiration, Not a Role Model, Tom Gjelten, 15/9/2006
- The Guardian: "The Fidel I Think I Know" của Gabriel García Márquez, 12/8/2006
- Washington Post: Fidel Castro Will Always Lead Cuba, Locals Say 22/2/2008