Dận Tường
Dận Tường | |||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Hoàng tử Đại Thanh | |||||||||
Hòa Thạc Di Thân vương | |||||||||
Tại vị | 1722 - 1730 | ||||||||
Tiền nhiệm | Tước vị thành lập | ||||||||
Kế nhiệm | Hoằng Hiểu | ||||||||
Thông tin chung | |||||||||
Sinh | 17 tháng 11, 1686 | ||||||||
Mất | 18 tháng 6, 1730 | (43 tuổi)||||||||
An táng | Di vương mộ (怡王 | ||||||||
Phối ngẫu | Triệu Giai thị | ||||||||
Hậu duệ | xem văn bản | ||||||||
| |||||||||
Thân phụ | Thanh Thánh Tổ | ||||||||
Thân mẫu | Kính Mẫn Hoàng quý phi |
Dận Tường (chữ Hán:
ᠰᡳᠶᠠᠩ, Möllendorff: In Siyang, Abkai: In Siyang; 17 tháng 11, năm 1686 - 18 tháng 6, năm 1730), Ái Tân Giác La, là vị Hoàng tử thứ 13 (tính trong số các Hoàng tử còn sống đến tuổi trưởng thành) của Thanh Thánh Tổ Khang Hi Hoàng đế.
Ông được biết đến là người anh em thân thiết nhất của Thế Tông Ung Chính Đế. Với lối sống nghĩa hiệp và cương trực của mình, ông được người đời tôn xưng là Hiệp vương (俠王), vì có công lao giúp anh trai tranh đoạt ngôi vị và trị vì hoàng triều nhà Thanh. Sau khi Ung Chính Đế đăng cơ, ông giữ chức vụ Nghị chính Đại thần, vì anh trai mà tận tâm tận lực củng cố chính quyền triều Ung Chính trở nên thịnh trị.
Vì những đóng góp ấy, ông được ban phong hiệu Di Thân vương (怡親
Cuộc đời
[sửa | sửa mã nguồn]Niên thiếu tài giỏi
[sửa | sửa mã nguồn]Hoàng tử Dận Tường sinh vào giờ Thìn, ngày 1 tháng 10 (âm lịch) năm Khang Hi thứ 25 (1686), mẹ là Kính Mẫn Hoàng quý phi Chương Giai thị. Mẹ của ông không có địa vị cao, lại mất sớm khi ông mới chỉ 14 tuổi, do đó ông được nuôi dưỡng bởi Hiếu Cung Nhân Hoàng hậu - mẹ của Hoàng tứ tử Dận Chân. Vì vậy, Dận Tường đã có một mối quan hệ gần gũi với Dận Chân ngay từ nhỏ. Ông còn có hai người em gái ruột là Hòa Thạc Ôn Khác Công chúa và Hòa Thạc Đôn Khác Công chúa.
Từ năm Khang Hi thứ 37 (1698), tháng 7, Dận Tường hộ giá Khang Hi Đế đến bái yết lăng tẩm Thịnh Kinh, đến Khang Hi thứ 47 (1708), bất kì khi nào Khang Hi Đế xa giá đều có Dận Tường đi theo, cho thấy Hoàng đế đối với đứa con trai này tương đối tín nhiệm[1]. Khoảng năm thứ 41 (1702), Khang Hi Đế Nam tuần, có Hoàng thái tử Dận Nhưng, Hoàng tứ tử Dận Chân cùng Hoàng thập tam tử tùy giá. Ngày nọ, Khang Hi đế ở hành cung triệu tập đại thần cùng các Hoàng tử nghiên tập thư pháp, khi ấy thư pháp của Dận Chân cùng Dận Tường rất được quần thần tán dương[2].
Bên cạnh thư pháp, Dận Tường được ghi lại tinh thông võ nghệ, ông "Tinh thông cưỡi ngựa bắn cung, phát tất mệnh trung". Có một lần đi tuần săn thú, một con mãnh hổ trong rừng xông ra, Dận Tường thần sắc bất động, cầm trong tay lưỡi dao sắc bén lao về phía trước, người đời bội phục bởi sự dũng mãnh phi thường của ông. Lão sư của Hoàng bát tử Dận Tự là Hà Trác (
Bị thất sủng
[sửa | sửa mã nguồn]Năm Khang Hi thứ 47 (1708), sự kiện Phế Thái tử xảy ra, Dận Tường bị liên lụy. Cho đến nay, các sử gia vẫn không đoán được nguyên nhân vì sau từ khoảng này trở đi thì Dận Tường đã bị thất sủng, kéo dài đến năm sau. Năm Khang Hi thứ 48 (1709), lần này khi chọn các Hoàng tử bồi giá đi tuần, Khang Hi Đế bắt đầu dùng "Luân ban chế" (轮班
Từ năm Khang Hi thứ 50 (1711), hành trạng của Dận Tường được ghi lại rất ít. Trong những tư liệu ít ỏi ấy, có thể thấy ông đã bị bệnh[3], Khang Hi Đế khi phản hồi tấu chương của Dận Chỉ cũng có từng hỏi qua:"Dận Tường tình trạng thế nào?"[4]. Hoàng tứ tử Dận Chân cũng từng vì Dận Tường mà sai Ngạc Nhĩ Thái tìm kiếm danh y chữa trị cho ông. Tình trạng của ông thẳng đến năm Ung Chính vẫn không ổn, chính Ung Chính Đế từng nói với Niên Canh Nghiêu:"Vương (chỉ Dận Tường) hễ đến mùa là cảm thấy gầy yếu"[5]. Do đó có thể thấy vai trò chính trị của Dận Tường trong thời gian này khá mờ nhạt.
Trọng thần thời Ung Chính
[sửa | sửa mã nguồn]Năm Khang Hi thứ 61 (1722), Hoàng tứ tử Dận Chân lên ngôi, tức Ung Chính Đế. Tháng 11 cùng năm, ân phong làm Hòa Thạc Di Thân vương (
Sang năm Ung Chính nguyên niên (1723), tháng giêng, Dận Tường tham gia xử lý Tông Nhân phủ. Tháng 4, tổng lý sự vụ bộ Hộ, sang năm thứ 3 (1724), Doãn Tường chính thức đảm nhiệm Nghị chính đại thần, xử lý các chính vụ quan trọng, lại cho một tước ["Quận vương";
Năm Ung Chính thứ 8 (1730), ngày 4 tháng 5 (tức ngày 18 tháng 6 dương lịch), Di Thân vương Doãn Tường qua đời, chung niên 45 tuổi. Do công lao to lớn, ông được phối thờ tại Thái Miếu và được truy phong thụy hiệu là Hiền (
Khi thụ phong tước hiệu, Di vương phủ một chi (kể cả Ninh Quận vương) đều thuộc cánh Tả của Chính Lam kỳ. Sau đó, Ung Chính Đế gia ân một chi Di vương phủ tiến hành võng thế, tức con cháu thừa tước mà không bị giáng cấp (xem Thiết mạo tử vương), trở thành vị Vương đầu tiên được gia ân sau khi Đại Thanh nhập quan. Mộ của ông gọi là Di vương mộ (怡王
Gia quyến
[sửa | sửa mã nguồn]Thê thiếp
[sửa | sửa mã nguồn]- Đích phúc tấn: Triệu Giai thị (
兆 佳 氏 ), con gái của Thượng thư Mã Nhĩ Hán (馬 爾 漢 ). - Trắc Phúc tấn:
- Phú Sát thị (
富 察氏), con gái của Tá lĩnh Tăng Cách (僧 格 ). - Ngô Tô thị (
烏 蘇 氏 ), con gái của Đầu đính hộ vệ Kim Bảo (金 保 ). - Qua Nhĩ Giai thị (
瓜 爾 佳 氏 ), con gái của Lang trung A Cáp Chiêm (阿 哈占).
- Thứ thiếp:
- Thạch Giai thị (
石 佳 氏 ), con gái của Lĩnh thôi Trang Cách (庄 格 ). - Nạp Lạt thị (
納 喇氏), con gái của Khinh xa đô úy Ngô Nhĩ Đôn (吳 爾 敦 ).
Hậu duệ
[sửa | sửa mã nguồn]- Con trai:
- Hoằng Xương [
弘昌 ; 1706 - 1771], con của Qua Nhĩ Giai thị. Tấn phong hiệu Bối tử (1723), sau thăng Bối lặc (1735); nhưng bị tước bỏ sau đó (1739). - Nhị tử [
第 二 子 ; 1708 - 1709], chết non, con của Thạch Giai thị. - Hoằng Thôn [
弘 暾; 1710 - 1728], con của Triệu Giai thị. Chưa phong tước đã mất, sau khi qua đời truy phong Bối lặc, con trai thứ 4 của Hoằng Hiểu làm thừa tự. - Hoằng Giao [
弘 晈; 1713 - 1764], con của Triệu Giai thị. Do Ung Chính Đế đặc ban một tước Quận vương, nên Hoằng Giao là Đích trưởng tử thụ tước, thăng Ninh Quận vương (寧 郡 王 ) (1730), qua đời truy phong Ninh Lương Quận vương (寧 良 郡 王 ). Có hai con trai. - Hoằng Quang [
弘 㫛; 1716 - 1722], chết yểu, con của Triệu Giai thị. - Hoằng Khâm [
弘 昑; 1716 - 1729], con của Ngô Tô thị, thăng Bối lặc (1729) rồi mất. - Hoằng Hiểu [
弘 晓; 1722 - 1778], con của Triệu Giai thị. Sau khi Dận Tường qua đời được thừa tước Di Thân vương (1730), qua đời truy phong Di Hy Thân vương (怡僖親王 ), có năm con trai. Hậu duệ là Tái Viên, bị buộc tự sát thời Đồng Trị, do đó thừa tước Thân vương chuyển qua cho con cháu Hoằng Giao. - Thụ Ân [綬恩; 1725 - 1727], chết non, con của Triệu Giai thị.
- A Mục San Lang [
阿 穆 瑚琅; 1726 - 1727], chết non, con của Nạp Lạt thị.
- Con gái:
- Trưởng nữ, Quận chúa [
郡 主 ; 1703 - 1776], con của Qua Nhĩ Giai thị. Năm Khang Hi thứ 61 (1722), thành thân với Tát Khắc Tín (薩克信 ) của tộc Tân Tuế Nhuế (津 濟 芮). - Thứ nữ, Quận chúa [
郡 主 ; 1707 - 1726], con của Triệu Giai thị. Năm Ung Chính nguyên niên (1723), thành thân với Phú Tăng Ngạch (富 僧 額 ), thuộc họ Y Nhĩ Căn Giác La. - Tam nữ [
第 三 女 ; 1710 - 1711], chết non, con của Phú Sát thị. - Hòa Thạc Hòa Huệ công chúa [
和 硕和惠 公主 ; 1714 - 1731], con của Triệu Giai thị, được Ung Chính Đế nhận làm nghĩa nữ. Năm Ung Chính thứ 7 (1729), thành thân với Đa Nhĩ Tế Tắc Bố Đằng (多 爾 濟 塞 布 騰 ) thuộc Bác Nhĩ Tế Cẩm thị của Mông Cổ. Có một con trai là Tang Trai Đa Nhĩ Tế (桑 齋 多 爾 濟 ).
Văn hoá đại chúng
[sửa | sửa mã nguồn]Năm | Tác phẩm | Diễn viên |
1980 | Đại nội quần anh
( |
Lại Thủy Thanh
(赖水 |
1988 | Mãn Thanh thập tam hoàng triều
(满清 |
Đặng Đức Quang
(邓德 |
1995 | Cửu vương đoạt vị
( |
La Tụng Hoa
(罗颂华) |
1997 | Giang hồ kỳ hiệp truyện
( |
Chu Hạo Đông
( |
1999 | Ung Chính vương triều
(雍正 |
Vương Huy
( |
2002 | Lý Vệ đương quan
( |
Vương Huy
( |
2003 | Cửu ngũ chí tôn
( |
Ngải Uy
( |
2004 | Lý Vệ đương quan 2
( |
Vương Huy
( |
2011 | Cung tỏa tâm ngọc | Điền Chấn Uy
(马文龙) |
2011 | Bộ bộ kinh tâm | Viên Hoằng |
2013 | Cung tỏa trầm hương
(宫锁沉香) |
Phương Diêu Tử Ý (thiếu niên) |
2013 | Ngã vị cung cuồng
( |
Ngô Vũ Hoa
(吴雨桦) |
2019 | Mộng Hồi Đại Thanh
(梦回 |
Vương An Vũ
( |
Xem thêm
[sửa | sửa mã nguồn]Chú thích
[sửa | sửa mã nguồn]Tham khảo
[sửa | sửa mã nguồn]- Thanh thực lục - Thánh Tổ thực lục và Thế Tông thực lục
- Thanh sử cảo, quyển 220, liệt truyện Thất