(Translated by https://www.hiragana.jp/)
Ký sinh thú – Wikipedia tiếng Việt Bước tới nội dung

Ký sinh thú

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
(Đổi hướng từ Kiseijū)
Ký sinh thú
寄生きせいじゅう
(Kiseijū)
Thể loạikinh dị, khoa học viễn tưởng
Manga
Tác giảIwaaki Hitoshi
Nhà xuất bảnKodansha
Nhà xuất bản tiếng ViệtNhà xuất bản Trẻ
Đối tượngSeinen
Tạp chíMorning Open Zōkan (1988-1989)Monthly Afternoon (1990-1995)
Đăng tải19901995
Số tập10
Anime
Đạo diễnShimizu Kenichi
Kịch bảnYonemura Shōji
Âm nhạcArai Ken
Hãng phimMadhouse
Kênh khác
Phát sóng 8 tháng 10, 2014 25 tháng 3, 2015
Số tập24
Phim live-action
Kiseijū
Đạo diễnYamazaki Takashi
Kịch bảnKosawa Ryūta
Âm nhạcSatō Naoki
Hãng phim
  • Robot
  • Toho Pictures
  • Office Abe Shuji
Công chiếu
  • 30 tháng 10 năm 2014 (2014-10-30) (TIFF)
  • 29 tháng 11 năm 2014 (2014-11-29) (Nhật Bản)
Phim live-action
Kiseijū Kanketsu-hen
Đạo diễnYamazaki Takashi
Kịch bảnKosawa Ryūta
Âm nhạcSatō Naoki
Hãng phim
  • Robot
  • Toho Pictures
  • Office Abe Shuji
Công chiếu
  • 25 tháng 4 năm 2015 (2015-04-25) (Nhật Bản)
 Cổng thông tin Anime và manga

Ký sinh thú (Nhật: 寄生きせいじゅう, Hepburn: Kiseijū?) là loạt seinen manga thuộc thể loại kinh dị, khoa học viễn tưởng, do Iwaaki Hitoshi sáng tác và minh hoạ. Được xuất bản bởi Kodansha thông qua tạp chí Morning Open Zōkan (từ 1988 đến 1989) và tạp chí Monthly Afternoon (từ 1990 đến 1995). Bộ manga đã được nhà xuất bản Trẻ phát hành tại Việt Nam.

Manga đã được chuyển thể thành hai phần phim live-action tại Nhật Bản, được công chiếu lần lượt vào năm 2014 và 2015. Một bộ anime truyền hình chuyển thể do studio Madhouse sản xuất với tựa Kiseijū Sei no Kakuritsu (Nhật: 寄生きせいじゅう セイの格率かくりつじゅう,?), phát sóng kể từ ngày 8 tháng 10 năm 2014 cho đến ngày 25 tháng 3 năm 2015.

Cốt truyện

[sửa | sửa mã nguồn]

Truyện xoay quanh một chàng trai 17 tuổi tên là Izumi Shin'ichi, sống với mẹ và bố tại một vùng yên bình của Tokyo. Một đêm nọ, những sinh vật giống những con sâu, được gọi là những ký sinh thú xuất hiện trên Trái Đất, chiếm đoạt não của vật chủ con người bằng cách đi qua lỗ tai, mũi của họ. Một ký sinh thú cố gắng bò vào lỗ tai của Shin'ichi trong khi cậu đang ngủ nhưng thất bại do Shin'ichi đang nghe tai nghe nên ký sinh thú chuyển sang bò vào lỗ mũi nhưng lại khiến Shin'ichi hắt hơi văng ra ngoài, nó đành chọn cách xâm nhập cơ thể cậu ta bằng việc đào hang vào cánh tay của Shin'ichi. Trong phiên bản tiếng Nhật, ký sinh chiếm giữ hầu hết cánh tay phải của Shin'ichi và có tên là Migi (みぎ), từ tiếng Nhật có nghĩa là "bên phải"; trong phiên bản của Tokyopop thì những hình ảnh lộn theo chiều ngang, và ký sinh thú xâm nhập tay trái của Shin'ichi và được đặt tên là Lefty (bên trái).

Do Shin'ichi đã dùng dây tai nghe thắt cánh tay ngăn chặn Migi trong việc dịch chuyển lên trên não bộ, khiến nó bị kẹt lại và phải phát triển và kiểm soát cánh tay phải và cả hai hiện tại phải duy trì mối quan hệ cộng sinh trong hoàn cảnh khả năng lập luận riêng rẽ một cách độc lập và có nhân cách riêng biệt. Khi "bộ đôi" chạm trán với các ký sinh thú khác, họ lợi dụng vào những trạng thái kỳ lạ của bản thân họ và dần dần hình thành một liên kết mạnh mẽ, hợp tác cùng nhau để sinh tồn. Điều này đưa cả hai tới bờ vực nguy khốn trong những cuộc chiến đấu với các ký sinh thú khác, những kẻ thường xuyên tấn công "bộ đôi" trên khi nhận thức rõ ràng rằng bộ não "con người" của Shin'ichi vẫn còn nguyên vẹn. Shin'ichi cảm thấy bị ép buộc phải chiến đấu với các ký sinh thú khác - những kẻ chuyên ăn tươi nuốt sống con người không hơn gì vai trò thức ăn, trong khi nhận được sự giúp đỡ từ Migi.

Phát triển

[sửa | sửa mã nguồn]

Iwaaki chọn một trường cao trung làm sự sắp đặt bố trí bởi đó là một cảnh phim ông đã suy ngẫm bản chất từ lâu. Khi suy xét một phân cảnh - nơi mà Migi biến dạng "cậu ta" trước mặt Murano Satomi, Iwaaki tin tưởng rằng phân cảnh đó sẽ làm tác phẩm tốt nhất trong một thiết lập trường học. Bởi vậy, Iwaaki đã đưa Kiseijū vào một khung cảnh ngôi trường cao trung.

Các chuyển thể

[sửa | sửa mã nguồn]

Loạt manga do Iwaaki Hitoshi sáng tác và minh hoạ. Được đăng trên tạp chí Morning Open Zōkan của Kodansha (từ 1988 đến 1989) và trên tạp chí Monthly Afternoon (từ 1990 đến 1995). Các chương manga được biên tập thành 10 tập tankōbon. Bộ manga đã được nhà xuất bản Trẻ mua bản quyền và phát hành tại Việt Nam.

Ngoài phiên bản tankōbon, loạt manga còn phát hành thêm 4 phiên bản khác:

  • Kanzenban (完全かんぜんばん), phát hành ngày 14 tháng 3 năm 2003.
  • Fullcolor-ban (フルカラーばん), phát hành ngày 21 tháng 12 năm 2014.
  • Shinsoban (新装しんそうばん), phát hành ngày 8 tháng 8 năm 2014.
  • Bunkoban (文庫ぶんこばん), phát hành tháng 12 năm 2014.

Các phần manga khác:

[sửa | sửa mã nguồn]

Một phần manga hợp tuyển với tựa Neo Kiseijū (ネオ寄生きせいじゅう Neo Kiseijū?), tổng hợp những one-shot do nhiều tác giả sáng tác và minh hoạ. Được đăng tải thông qua tạp chí Monthly Afternoon kể từ ngày 25 tháng 9 năm 2014[1] cho đến ngày 25 tháng 3 năm 2016. Những tác giả tham gia sáng tác gồm có: Hiramoto Akira,[2] Takinami Yukari,[3] Nirasawa Yasushi,[4] Endo Hiroki,[5] Ueshiba Riichi,[6][7] Minagawa Ryōji,[8] Kumakura Takatoshi,[9] Peach-Pit,[10] Mashima Hiro,[11] Ota Moare,[12] Takeya Takayuki và Hagio Moto.[13] Các chương manga sau đấy được biên tập thành một tập duy nhất, xuất bản vào ngày 22 tháng 7 năm 2016.[14]

Một phần manga hợp tuyển với tựa Neo Kiseijū f (ネオ寄生きせいじゅう?), được đăng tải thông qua tạp chí Aria kể từ ngày 27 tháng 9 năm 2014 cho đến ngày 28 tháng 1 năm 2015.[15] Những tác giả tham gia sáng tác gồm có: MikiMaki, Rinno Miki,[15] Tōyama Ema, Suruga Hikaru,[16] Nakamura Asumiko, Yuki Kaori , Narushima Yuri, Kuroe Yui,[17] Kindaichi Renjuro, Kuze Banko, Kashio,[18] Obata Yūki, Watanabe Asia, Kojima Rarako và Shinjō Hajime.[19] Các chương manga sau đấy được biên tập thành một tập duy nhất.

Một phần spin-off với tựa Kiseijū Reversi (寄生きせいじゅうリバーシ Kiseijū Ribāshi?), do Ohta Moare sáng tác và minh hoạ được đăng tải thông qua ứng dụng Comic Days của Kodansha kể từ ngày 2 tháng 3 năm 2018.[20]

Các tập manga

[sửa | sửa mã nguồn]
#Phát hành chính ngữPhát hành Tiếng Việt
Ngày phát hànhISBNNgày phát hànhISBN
1 20/07/1990[21]978-4-06-314026-212/07/2021978-604-1-18976-8
2 18/01/1991[22]978-4-06-314029-327/09/2021978-604-1-18977-5
3 18/07/1991[23]978-4-06-314036-125/10/2021978-604-1-18978-2
4 20/01/1992[24]978-4-06-314040-822/11/2021978-604-1-18979-9
5 19/8/1992[25]978-4-06-314045-306/12/2021978-604-1-18980-5
6 19/01/1993[26]978-4-06-314054-520/12/2021978-604-1-18981-2
7 20/7/1993[27]978-4-06-314064-403/01/2022978-604-1-18982-9
8 16/02/1994[28]978-4-06-314076-717/01/2022978-604-1-18983-6
9 11/11/1994[29]978-4-06-314095-814/02/2022978-604-1-18984-3
10 15/03/1995[30]978-4-06-314107-828/02/2022978-604-1-18985-0

Live-action

[sửa | sửa mã nguồn]

Hai phần phim live-action đều do Yamazaki Takashi đạo diễn, Kosawa Ryūta viết kịch bản. Phần đầu tiên có tựa Kiseijū, với thời lượng 109 phút, khởi chiếu lần đầu vào ngày 30 tháng 10 năm 2014 tại Liên hoan phim quốc tế Tokyo. Phần thứ hai có tựa Kiseijū Kanketsu-hen, với thời lượng 117 phút, khởi chiếu vào ngày 25 tháng 4 năm 2015.[31]

Một bộ anime truyền hình chuyển thể với tựa Ký sinh thú: Châm ngôn sống (Nhật: 寄生きせいじゅう セイの格率かくりつじゅう, Hepburn: Kiseijū Sei no Kakuritsu?), gồm 24 tập, được sản xuất bởi studio Madhouse, do Shimizu Kenichi đạo diễn, Yonemura Shōji viết kịch bản, Hiramatsu Tadashi thiết kế nhân vật và Ken Arai sáng tác phần nhạc hiệu. Phát sóng kể từ ngày 8 tháng 10 năm 2014 cho đến ngày 25 tháng 3 năm 2015.[32] Ca khúc opening là "Let Me Hear" được trình bày bởi nhóm Fear, and Loathing in Las Vegas. Ca khúc ending là "It's the Right Time" được trình bày bởi Miura Daichi. Animax Asia đã cấp bản quyền anime trong khu vực Đông Nam ÁNam Á.[33]

Đón nhận

[sửa | sửa mã nguồn]

Bộ manga đã thắng Giải Manga Kodansha lần thứ 17 ở hạng mục chung vào năm 1993, chiến thắng tại Giải Seiun cho manga hay nhất của năm 1996.

Tính tới tháng 10 năm 2014, bộ manga đã bán được hơn 11 triệu bản in.[34] Tính tới tháng 12 năm 2020, bộ manga đã bán được hơn 24 triệu bản in.[35]

Vào ngày 9 tháng 6 năm 2015, Bộ văn hoá Trung Quốc đã liệt "Ký sinh thú" cùng 37 bộ anime/manga khác vào danh sách cấm tại nước này.[36]

Phần phim live action đầu tiên đã thu về khoảng 800 triệu ¥ doanh phòng vé tại Nhật Bản sau hai tuần công chiếu.[37] Cùng với đó phần phim cũng được đề cử cho hạng mục hiệu ứng hình ảnh xuất sắc tại giải thưởng The Asian Film Awards Academy (AFA Academy) năm 2015.[38]

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ 寄生きせいじゅう×アゴなしゲン!トリビュート企画きかくだい1だん. Natalie (bằng tiếng Nhật). ngày 25 tháng 9 năm 2014. Truy cập ngày 25 tháng 5 năm 2020.
  2. ^ Cardine, Kyle (ngày 23 tháng 8 năm 2014). “Me and the Devil Blues' Hiramoto to Draw Parasyte 1-Shot”. Anime News Network. Truy cập ngày 25 tháng 5 năm 2020.
  3. ^ 寄生きせいじゅう×江古田えこだちゃん!トリビュートだい2だん. Natalie (bằng tiếng Nhật). ngày 31 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 25 tháng 5 năm 2020.
  4. ^ 江古田えこだちゃん」の瀧波たきなみユカリ、しん連載れんさい平安へいあん時代じだいこんかつマンガ. Natalie (bằng tiếng Nhật). ngày 25 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 25 tháng 5 năm 2020.
  5. ^ 遠藤えんどうひろしてる「EDEN」完結かんけつより6ねんぶりにアフタ帰還きかん!「寄生きせいじゅうえがくシリーズで. Natalie (bằng tiếng Nhật). ngày 25 tháng 12 năm 2014. Truy cập ngày 25 tháng 5 năm 2020.
  6. ^ Pineda, Rafael Antonio (ngày 22 tháng 4 năm 2015). “Mysterious Girlfriend X's Ueshiba Draws Parasyte One-Shot Manga”. Anime News Network. Truy cập ngày 25 tháng 5 năm 2020.
  7. ^ なぞ彼女かのじょX」の植芝うえしば理一りいちが「寄生きせいじゅう」をえがく!スマホ片手かたてたびするミギー. Natalie (bằng tiếng Nhật). ngày 25 tháng 2 năm 2015. Truy cập ngày 25 tháng 5 năm 2020.
  8. ^ しのぼうろくろうのファンタジー連載れんさい、アフタで始動しどう皆川みなかわ亮二りょうじの「寄生きせいじゅう」も. Natalie (bằng tiếng Nhật). ngày 25 tháng 3 năm 2015. Truy cập ngày 25 tháng 5 năm 2020.
  9. ^ 五十嵐いがらし大介だいすけ始動しどう!アフタヌーンでハードSFしん連載れんさい「ディザインズ」. Natalie (bằng tiếng Nhật). ngày 25 tháng 4 năm 2015. Truy cập ngày 25 tháng 5 năm 2020.
  10. ^ Valdez, Kiara (ngày 22 tháng 4 năm 2015). “Rozen Maiden's Peach-Pit to Draw Parasyte One-Shot Manga”. Anime News Network. Truy cập ngày 25 tháng 5 năm 2020.
  11. ^ Pineda, Rafael Antonio (ngày 22 tháng 7 năm 2015). “Fairy Tail's Mashima to Draw Parasyte One-Shot Manga”. Anime News Network. Truy cập ngày 25 tháng 5 năm 2020.
  12. ^ アフタで太田おおたモアレが「寄生きせいじゅうえがく、次号じごう萩尾はぎお望都もと田宮たみや良子りょうこむすめ執筆しっぴつ. Natalie (bằng tiếng Nhật). ngày 25 tháng 2 năm 2016. Truy cập ngày 25 tháng 5 năm 2020.
  13. ^ 萩尾はぎお望都もと造形ぞうけい作家さっか竹谷たけたに隆之たかゆき表現ひょうげんする「寄生きせいじゅう」、アフタに登場とうじょう. Natalie (bằng tiếng Nhật). ngày 25 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 25 tháng 5 năm 2020.
  14. ^ ネオ寄生きせいじゅう (bằng tiếng Nhật). Kodansha. Truy cập ngày 25 tháng 5 năm 2020.
  15. ^ a b Cardine, Kyle (ngày 29 tháng 8 năm 2014). “Parasyte Tribute Manga Will Also Run in Aria Magazine for Women”. Anime News Network. Truy cập ngày 25 tháng 5 năm 2020.
  16. ^ ARIAでも寄生きせいじゅうだい1だんりんのミキ&ミキマキ. Natalie (bằng tiếng Nhật). ngày 26 tháng 9 năm 2014. Truy cập ngày 25 tháng 5 năm 2020.
  17. ^ 中村なかむら明日美あすみが「寄生きせいじゅう」をえがく!ARIAで表紙ひょうし執筆しっぴつ. Natalie (bằng tiếng Nhật). ngày 28 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 25 tháng 5 năm 2020.
  18. ^ ARIAの「K」あたらしあきら劇場げきじょうばん後日ごじつたん金田一きんだいちれん十郎じゅうろう、カシオらの寄生きせいじゅう. Natalie (bằng tiếng Nhật). ngày 27 tháng 12 năm 2014. Truy cập ngày 25 tháng 5 năm 2020.
  19. ^ ぼくとうがいた」の小畑おばた友紀ゆき、ARIAの寄生きせいじゅうトリビュートに登場とうじょう. Natalie (bằng tiếng Nhật). ngày 28 tháng 1 năm 2015. Truy cập ngày 25 tháng 5 năm 2020.
  20. ^ 講談社こうだんしゃ6合同ごうどうのマンガアプリ「コミックDAYS」が本格ほんかく始動しどう、アプリばんもリリース. Natalie (bằng tiếng Nhật). ngày 2 tháng 3 năm 2018. Truy cập ngày 25 tháng 5 năm 2020.
  21. ^ 寄生きせいじゅう(1) (bằng tiếng Nhật). Kodansha. Truy cập ngày 25 tháng 5 năm 2020.
  22. ^ 寄生きせいじゅう(2) (bằng tiếng Nhật). Kodansha. Truy cập ngày 25 tháng 5 năm 2020.
  23. ^ 寄生きせいじゅう(3) (bằng tiếng Nhật). Kodansha. Truy cập ngày 25 tháng 5 năm 2020.
  24. ^ 寄生きせいじゅう(4) (bằng tiếng Nhật). Kodansha. Truy cập ngày 25 tháng 5 năm 2020.
  25. ^ 寄生きせいじゅう(5) (bằng tiếng Nhật). Kodansha. Truy cập ngày 25 tháng 5 năm 2020.
  26. ^ 寄生きせいじゅう(6) (bằng tiếng Nhật). Kodansha. Truy cập ngày 25 tháng 5 năm 2020.
  27. ^ 寄生きせいじゅう(7) (bằng tiếng Nhật). Kodansha. Truy cập ngày 25 tháng 5 năm 2020.
  28. ^ 寄生きせいじゅう(8) (bằng tiếng Nhật). Kodansha. Truy cập ngày 25 tháng 5 năm 2020.
  29. ^ 寄生きせいじゅう(9) (bằng tiếng Nhật). Kodansha. Truy cập ngày 25 tháng 5 năm 2020.
  30. ^ 寄生きせいじゅう(10) (bằng tiếng Nhật). Kodansha. Truy cập ngày 25 tháng 5 năm 2020.
  31. ^ "Hitoshi Iwaaki's Parasyte Sci-Fi Manga Gets 2 Live-Action Films in 2014–2015".
  32. ^ "寄生きせいじゅう:アニメばん「セイの格率かくりつ」は10がつから 新一しんいち島崎しまざき信長のぶなが、ミギーを平野ひらのあや – MANTANWEB(まんたんウェブ)". Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 20 tháng 6 năm 2016.
  33. ^ "Animax Asia Will Simulcast Parasyte -the maxim- TV Anime".
  34. ^ Loveridge, Lynzee (ngày 18 tháng 10 năm 2014). “Kodansha Comics Will Reprint Iwaaki's Parasyte Manga”. Anime News Network. Truy cập ngày 5 tháng 12 năm 2019.
  35. ^ 累計るいけい2400まん突破とっぱ映像えいぞうもされた伝説でんせつてきだい傑作けっさく. Monthly Afternoon. Kodansha. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 12 năm 2020. Truy cập ngày 25 tháng 12 năm 2020.
  36. ^ “China Blacklists Attack on Titan, Death Note, 36 More Anime/Manga”. ngày 9 tháng 6 năm 2015. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 6 năm 2021. Truy cập ngày 20 tháng 6 năm 2021.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  37. ^ http://www.filmbiz.asia/news/naruto-overtakes-parasyte-at-japan-box-office”. Liên kết ngoài trong |title= (trợ giúp); |url= trống hay bị thiếu (trợ giúp)
  38. ^ “đề cử tại giải The Asian Film Awards Academy (AFA Academy)”.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]