(Translated by https://www.hiragana.jp/)
Makanrushi – Wikipedia tiếng Việt Bước tới nội dung

Makanrushi

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Makanrushi
Ảnh chụp đảo từ vệ tinh
Địa lý
Vị tríBiển Okhotsk
Tọa độ49°47′B 154°26′Đ / 49,78°B 154,43°Đ / 49.78; 154.43
Quần đảoQuần đảo Kuril
Diện tích49 km2 (18,9 mi2)
Độ cao tương đối lớn nhất1.169 m (3.835 ft)
Đỉnh cao nhấtPik Mitaka
Hành chính
Nhân khẩu học
Dân số0
Đảo Onekotan (giữa), cùng với đảo Makanrushi ở phía trên bên trái và Kharimkotan ở phía dưới.

Makanrushi (tiếng Nga: Маканруши;Tiếng Nhật: とめ とう; Makanru-tō) là một hòn đảo núi lửa không có người ở nằm ở gần đầu phía bắc trong quần đảo Kuril thuộc biển Okshotsk, tây bắc Thái Bình Dương. Tên của hòn đảo bắt nguồn từ tiếng Ainu.

Địa chất học

[sửa | sửa mã nguồn]

Makanrushi có hình gần chữ nhật, diện tích khoảng 49 kilômét vuông (19 dặm vuông Anh)[1]

Hòn đảo bao gồm một núi lửa dạng tầng không hoạt động trong thời gian dài hoặc đã tắt tên Pik Mitaka - (tiếng Nga: влк.Митака; Tiếng Nhật; Mitakayama), với độ cao 1.169 m (3.835 ft) trên mực nước biển. Hòn đảo có các vách đá dốc đứng và không có bãi cát, khiến việc hạ cánh xuống hòn đảo rất khó khăn và nguy hiểm ngay cả trong thời tiết tốt. Makanrushi cách Onekotan 28 km. Makanrushi do đó nằm đằng sau vòng cung núi lửa đang hoạt động của quần đảo Kuril.

Lịch sử

[sửa | sửa mã nguồn]

Makanrushi dường như chưa bao giờ có người cư trú thường xuyên. Hòn đảo chính thức xuất hiện trên bản đồ như một phần lãnh thổ của Matsumae Domain, một lãnh địa phong kiến của thời Edo Nhật Bản từ năm 1644, và quyền kiểm soát hòn đảo đã được mạc phủ Tokugawa xác nhận vào năm 1715. Sau đó, hòn đảo được tuyên bố chủ quyền bởi Đế quốc Nga, theo các điều khoản của Hiệp ước Shimoda, nhưng đã được trả lại cho Đế quốc Nhật Bản theo Hiệp ước Sankt-Peterburg (1875) cùng với phần còn lại của quần đảo Kuril. Hòn đảo này từng được quản lý như một phần của quận Shimushu thuộc phân khu Nemuro của tỉnh Hokkaidō. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, hòn đảo này nằm dưới sự kiểm soát của Liên Xô, và hiện được quản lý như một phần của tỉnh Sakhalin của Liên bang Nga.

Vào ngày 10 tháng 8 năm 1856, con tàu Alexander Coffin (381 tấn), của thuyền trưởng Isaiah Purrington, ở New Bedford đã bị mắc cạn trên đảo trong sương mù. Con tàu được thắp sáng và lái tạm đến Ayan, sau đó bị thải loại và bán đấu giá với giá 300 đô la.[2][3][4][5]

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ “International Kuril Island Project(IKIP)”. University of Washington Fish Collection or the respective authors. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 7 năm 2013. Truy cập ngày 23 tháng 3 năm 2020.
  2. ^ Whalemen's Shipping List and Merchants' Transcript (Vol. XIV, No. 41, Dec. 16, 1856, New Bedford).
  3. ^ Whalemen's Shipping List and Merchants' Transcript (Vol. XIV, No. 42, Dec. 23, 1856, New Bedford).
  4. ^ The Friend (Vol. V, No. 12, Dec. 11, 1856, p. 93, Honolulu).
  5. ^ Frances Henrietta, of New Bedford, Sept. 9, 1856, Nicholson Whaling Collection.

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]

Đọc thêm

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Gorshkov, G. S. Volcanism and the Upper Mantle Investigations in the Kurile Island Arc. Monographs in geoscience. New York: Plenum Press, 1970. ISBN 0-306-30407-4
  • Krasheninnikov, Stepan Petrovich, and James Greive. The History of Kamtschatka and the Kurilski Islands, with the Countries Adjacent. Chicago: Quadrangle Books, 1963.
  • Rees, David. The Soviet Seizure of the Kuriles. New York: Praeger, 1985. ISBN 0-03-002552-4
  • Takahashi, Hideki, and Masahiro Ōhara. Biodiversity and Biogeography of the Kuril Islands and Sakhalin. Bulletin of the Hokkaido University Museum, no. 2-. Sapporo, Japan: Hokkaido University Museum, 2004.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]