Nam Chiếu
Nam Chiếu
|
|||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Tên bản ngữ
| |||||||||||
738–902 | |||||||||||
Vị thế | Vương quốc | ||||||||||
Thủ đô | Thái Hòa thành ( | ||||||||||
Ngôn ngữ thông dụng | Tiếng Hán trung cổ Tiếng Lô Lô Tiếng Bạch Tiếng Di | ||||||||||
Tôn giáo chính | Đạo Phật | ||||||||||
Chính trị | |||||||||||
Chính phủ | Quân chủ chuyên chế | ||||||||||
Lịch sử | |||||||||||
• Thành lập | 738 | ||||||||||
• Giải thể | 902 | ||||||||||
| |||||||||||
Hiện nay là một phần của | Trung Quốc Lào Myanmar Việt Nam |
Nam Chiếu | |||||||||
Tên tiếng Trung | |||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Phồn thể | |||||||||
Giản thể | |||||||||
| |||||||||
Tên Tây Tạng | |||||||||
Chữ Tạng | འཇང་ཡུལ | ||||||||
| |||||||||
Tên tiếng Việt | |||||||||
Tiếng Việt | Nam Chiếu Đại Lễ | ||||||||
Tên tiếng Thái | |||||||||
Tiếng Thái | น่านเจ้า | ||||||||
Hệ thống Chuyển tự Tiếng Thái Hoàng gia | Nanchao | ||||||||
Tên tiếng Lào | |||||||||
Lào | ໜານເຈົ້າ /nǎːn.tɕaw/ ນ່ານເຈົ້າ /nāːn.tɕaw/ ນ່ານເຈົ່າ /nāːn.tɕāw/ ໜອງແສ /nɔ̌ːŋ.sɛ̌ː/ |
Nam Chiếu quốc (chữ Hán:
Vương quốc tồn tại từ năm 738, khi Mông Xá (Mường Se) quốc quân Mông Bì La Các thống nhất Lục Chiếu, và nó đã đạt đến độ cực thịnh vào năm 860 khi ôm gọn vùng Vân Nam ngày nay, giáp với đông nam của Quý Châu, Tây Tạng, Tứ Xuyên; tây bắc của Việt Nam và chính bắc của Lào và Miến Điện.
Quốc gia này bị diệt vong vào năm 902, khi quyền thần Trịnh Mãi Tự giết toàn bộ vương thất Nam Chiếu và tự lập nên Đại Trường Hòa. Chiến cục sau đó ở Nam Chiếu đã bất ổn định trong một thời gian, sau khi trải qua 3 thời đại thì chính thức hình thành nên một quốc gia cường thịnh khác ở Vân Nam, Vương quốc Đại Lý.
Quốc hiệu
[sửa | sửa mã nguồn]Năm 779, Mông Dị Mâu Tầm dời đô đến Dương Tư Mị Thành (
Năm 860, Mông Thế Long sửa quốc hiệu thành Đại Lễ quốc (
Lịch sử
[sửa | sửa mã nguồn]Sự thành lập và các dân tộc
[sửa | sửa mã nguồn]Nguyên thủy, ở đây có một vài bộ lạc của người Bạch sinh sống bằng nông nghiệp trong các vùng đất màu mỡ xung quanh hồ Nhĩ Hải. Mỗi một bộ lạc là một vương quốc riêng biệt, được gọi là Chiếu (
Về việc này Việt Nam sử lược (VNSL) của Trần Trọng Kim có chép:
" Trong khoảng năm Khai Nguyên (713-742) đời Huyền Tông nhà Đường, Nam Chiếu là Bì La Cáp cường thịnh lên, mà 5 chiếu kia suy hèn đi. Bì La Cáp mới đút lót cho quan tiết độ sứ đạo Kiếm Nam là Vương Dục để xin hợp cả sáu chiếu lại làm một. Triều đình nhà Đường thuận cho, và đặt tên là Quy Nghĩa. Từ đó Nam Chiếu càng ngày càng thịnh lên, đem quân đi đánh Thổ Phồn... Bấy giờ Nam Chiếu đã mạnh lắm, bèn xưng đế và đặt quốc hiệu là Đại Mông quốc rồi lại đổi là Đại Lễ... "
Vương quốc Nam Chiếu duy trì một mối quan hệ mật thiết với nhà Đường, và chính quyền Nam Chiếu là của hai tộc người Bạch và Di. Một số nhà sử học còn cho rằng phần lớn dân cư là người Bạch, nhưng cầm quyền lại là người Di. Thủ đô của vương quốc này được thành lập năm 738 ở Thái Hòa (ngày nay là làng Thái Hòa, cách thành cổ Đại Lý vài dặm về phía nam). Nằm ở trung tâm của thung lũng Nhĩ Hải, khu vực này khi đó là lý tưởng: nó giúp cho người ta dễ dàng chống lại các cuộc tấn công và nó nằm giữa một khu vực đất đai nông nghiệp màu mỡ.
Dân cư vùng phía Tây và Tây Nam của Nam Chiếu có lẽ phần lớn là các tộc người gốc Tây Tạng như Bạch, người Di (Lolo và La Hủ), phía Đông Nam có lẽ là người Thái gốc Nam Việt mới di cư đến (sau khi thành Phiên Ngung thất thủ) và Miêu (Hmong), Dao. Tuy nhiên, tên các vua Nam Chiếu cho thấy có lẽ họ không phải là người Thái, vì họ đặt tên theo cách dùng âm tiết cuối của tên cha để bắt đầu tên con, phổ biến trong người Lolo và các nhóm Tạng-Miến khác nhưng không phổ biến trong người Thái. Cũng như vậy, có nhiều từ Nam Chiếu được ghi lại được xác định là ngôn ngữ Lolo, và không có trong từ vựng Thái.
Phát triển
[sửa | sửa mã nguồn]Năm 748, nhà Đường (đời vua Đường Huyền Tông) phong Mông Các La Phượng làm Vân Nam vương (
Trong khi đó Thiền Vu Trọng Thông (鮮于
Năm 751, quân đội nhà Đường (đời vua Đường Huyền Tông) tiến tới kinh sư của Nam Chiếu nhưng đội quân này đã bị đánh bại ở Hạ Quan bởi liên quân Nam Chiếu và Thổ Phồn. Cùng năm này, nhà Đường còn chịu một thất bại khác rất nặng nề dưới tay của người Ả Rập trong Trận chiến Talas ở Trung Á; các thất bại này đã làm nhà Đường suy yếu cả trong lẫn ngoài. Ngày nay, mồ tướng (2 km về phía tây Hạ Quan), và mả vạn binh (trong công viên Thiên Bảo) là chứng tích cho thảm bại này. Từ trận này, Nam Chiếu và Thổ Phồn kết làm huynh đệ chi bang.
Năm 754, nhà Đường (đời vua Đường Huyền Tông) lại cử Lý Mật đem quân đội sang đánh, lần này từ phía bắc, nhưng khi quân đến thì không công thành được, lại hết lương, bệnh dịch nên Lý Mật phải rút đi. Các La Phượng nhân đó truy kích và tiêu diệt toàn bộ quân của Lý Mật.
Được lợi từ những thành công này, Nam Chiếu phát triển và bành trướng rất nhanh, đầu tiên là vào Miến Điện, sau đó là toàn bộ Vân Nam ngày nay, xuống phía bắc Lào và Thái Lan, và sau đó về phía bắc tới Tứ Xuyên. Năm 764, Nam Chiếu thiết lập kinh đô thứ hai tại Côn Minh với một bộ máy hành chính quan lại rất hoàn chỉnh.
Năm 830, Thành Đô của nhà Đường (đời vua Đường Văn Tông) đã bị quân Nam Chiếu (đời vua Mông Khuyến Phong Hữu) chiếm đóng; nó đã là một phần thưởng lớn, vì nó làm cho Nam Chiếu có khả năng đánh chiếm toàn bộ tỉnh Tứ Xuyên với những cánh đồng màu mỡ. Điều này là quá nhiều đối với người Trung Hoa, họ đã không mất nhiều thời gian để phản công.
Năm 859, vua Nam Chiếu là Mông Thế Long công hãm Bá Châu của nhà Đường (nay là Tuân Nghĩa, Quý Châu).
Nam Chiếu cũng đã từng xâm chiếm An Nam (tên gọi khi đó của Việt Nam) từ những năm 846 tới năm 866. Về việc này, trong Đại Việt sử ký toàn thư có chép (lược trích lại):
“ | Bính Dần, 846, (Đường Hội Xương năm thứ 6). Người Nam Man (tức Nam Chiếu, đời vua Mông Khuyến Phong Hữu) vào cướp. Vua Đường Vũ Tông sai Kinh Lược Sứ là Bùi Nguyên Hựu đem quân các đạo lân cận đánh dẹp được.
|
” |
Ngoài ra, Nam Chiếu cũng đã nhiều lần tấn công Myanmar. Từ giữa thế kỷ thứ 8 cho tới cuối thế kỷ thứ 9, Nam Chiếu là một cường quốc trong vùng nam Trung Quốc, bắc Đông Nam Á. Nó liên tục gây sức ép quân sự lên Các thị quốc Pyu ở miền trung Miến Điện bây giờ, quân Nam Chiếu đánh tới tận miền nam Miến Điện và miền bắc Thái Lan đầu thế kỷ thứ 9, mở cuộc viễn chinh đánh Chân Lạp và ghi lại là họ đã tiến tới tận bờ biển, liên tiếp tiến công vào An Nam đô hộ phủ thuộc nhà Đường trong khoảng thời gian 846 - 866.
Đây là thời kỳ sức mạnh Nam Chiếu đạt đến đỉnh điểm, rồi dần suy đi, trước sức ép của Trung Hoa đang cường thịnh trở lại, và Việt Nam giành được độc lập.
Suy yếu
[sửa | sửa mã nguồn]Năm 870 nước Nam Chiếu (đời vua Mông Thế Long) tiến quân đánh vào Thành Đô nhà Đường (đời vua Đường Ý Tông), một quan lại là Dương Khánh Phục (楊慶
Năm 873, nước Nam Chiếu (đời vua Mông Thế Long) bị đuổi khỏi Tứ Xuyên và bị đẩy lùi về Vân Nam. Việc chiếm đóng Thành Đô là mốc đỉnh cao của nhà Nam Chiếu, từ đó trở đi vương quốc Nam Chiếu bắt đầu suy yếu.
Năm 874, nước Nam Chiếu (đời vua Mông Thế Long) tiến công vào Tây Xuyên[2] của nhà Đường (đời vua Đường Hy Tông), Tây Xuyên tiết độ sứ Ngưu Tùng (
Mùa xuân năm 875, Cao Biền được Đường Hy Tông bổ nhiệm là Tây Xuyên tiết độ sứ,[3] cũng như Thành Đô doãn.[4] Cao Biền nhận thấy sẽ phát sinh đại dịch nếu người dân đều tụ tập bên trong tường thành Thành Đô, vì thế ông ta đã hạ lệnh mở cổng thành cho người dân ra ngoài ngay cả trước khi ông ta đến thành này, người dân Thục bước đầu rất hài lòng về Cao Biền. Khi đến nơi vào mùa xuân năm 875, Cao Biền tiến hành một số cuộc tiến công nhỏ nhằm trừng phạt Nam Chiếu, sau đó cho xây dựng một số thành lũy trọng yếu trên biên giới với Nam Chiếu. Cao Biền tăng cường phòng thủ, Nam Chiếu không tiếp tục tiến hành các cuộc tiến công vào Tây Xuyên, song thỉnh cầu tổng tiến công Nam Chiếu (đời vua Mông Thế Long) của Cao Biền bị Đường Hy Tông từ chối.[3]
Năm 876, nước Nam Chiếu (đời vua Mông Thế Long) sai sứ giả đến chỗ Cao Biền của nhà Đường cầu hòa, song lại tập kích qua biên giới nhà Đường (đời vua Đường Hy Tông) không ngừng, Cao Biền xử trảm vị sứ giả Nam Chiếu này. Sau đó, Nam Chiếu lại gửi "mộc giáp thư" cho Cao Biền, yêu cầu được mượn Cẩm Giang cho ngựa uống nước. Cao Biền cho xây dựng phủ thành Thành Đô, tăng cường công sự phòng ngự. Cao Biền cũng phái hòa thượng Cảnh Tiên (
Tới nửa sau thế kỷ 9, Nam Chiếu chỉ còn duy trì ảnh hưởng của mình ở vùng tây nam Trung Hoa, sau hàng thập kỷ chiến tranh liên tục.
Tình hình chính trị nội bộ của Nam Chiếu cũng không ổn định với việc có tới 13 vua lên ngôi trong vòng 120 năm tiếp đó, và không ai trong số họ quan tâm đến việc bành trướng thế lực về phía nam nữa. Trong đó, dòng họ Trịnh ở Vân Nam là người Hán nhiều năm thừa kế chức Thanh bình quan (
Năm 902, vua Mông Thuấn Hóa Trinh qua đời. Trịnh Mãi Tự giết chết 800 người thân tộc của Nam Chiếu vương, triều đại Nam Chiếu bị lật đổ, và sau đó là Đại Trường Hòa. Sau Đại Trường Hòa, lại có Đại Thiên Hưng, Đại Nghĩa Ninh 3 triều đại kế tiếp nhau cho đến khi Đoàn Tư Bình nắm quyền năm 937 để thành lập ra Vương quốc Đại Lý.
Chính trị
[sửa | sửa mã nguồn]Nền chính trị trung ương của Nam Chiếu ảnh hưởng mạnh của văn hóa nhà Đường.
Lúc này bộ máy cai trị có Lục tào (
Tể tướng gọi Thanh Bình quan (
- Kiểm (
瞼 ): đến thời hậu kỳ đã lên tới con số 11 kiểm.- Đại Hòa kiểm (
大和 瞼 ): ngày nay là khu Đại Hòa, Thành phố Đại Lý. - Tư Mị kiểm (苴咩
瞼 ): còn gọi Dương Tư Mị (陽 苴咩), ngày nay là khu vực Đại Lý cổ thành. - Đại Ly kiểm (
大 厘 瞼 ): nay là khu vực Hỉ Châu. - Đằng Xuyên kiểm (邆川
瞼 ): nay là khu Đặng Châu. - Mông Xá kiểm (
蒙 舍 瞼 ): nay là khu huyện Nguy Sơn. - Bạch Nhai kiểm (
白 崖 瞼 ): nay là khu vực huyện Di Độ. - Vân Nam kiểm (
雲南 瞼 ): nay là khu vực huyện Tường Vân. - Phẩm Đạm kiểm (
品 澹瞼): nay là khu vực huyện Tường Vân. - Mông Tần kiểm (
蒙 秦 瞼 ): nay là khu vực huyện Dạng Tỵ. - Hĩ Hòa kiểm (矣和
瞼 ): nay là khu vực huyện Nhĩ Nguyên. - Triệu Xuyên kiểm (
趙 川 瞼 ): nay là khu vực trấn Phượng Nghi của Thành phố Đại Lý.
- Đại Hòa kiểm (
Ngoài Kiểm, Nam Chiếu quốc sau khi thu phục sẽ đặt các khu vực Tiết độ (
Thời hậu kì:
- Lục tiết độ: Lộng Đống (
弄 棟 ), Vĩnh Xương (永昌 ), Ngân Sinh (銀 生 ), Kiểm Xuyên (劍 川 ), Thác Đông (拓 東 ) và Lệ Thủy (麗水 ). - Nhị đô đốc: Hội Xuyên (
會川 ), Thông Hải (通 海 ).
Quân đội
[sửa | sửa mã nguồn]Nam Chiếu có hệ thống binh đội thiện chiến, cơ bản chia ra quân thường trực, hương binh và di tốt.
Quân thường trực số lượng không lớn, nhưng sức chiến đấu rất mạnh, được xưng là [La Tư tử; 囉苴
Người quản lý quân sự cao cấp nhất ở Nam Chiếu gọi là Đại quân tướng (
Kinh tế
[sửa | sửa mã nguồn]Nam Chiếu xã hội kinh tế phát triển không cân bằng, lấy Điền Trì và Nhị Hải hai địa khu làm chuẩn tối cao.
Nông nghiệp lấy lúa nước làm chủ yếu, còn có đậu, mạch, túc, tắc các loại ngũ cốc và hoa màu khác. Đa số là trồng lúa mạch, mỗi năm có 2 vụ mùa, chủ yếu trồng trên các ruộng bậc thang.
Ở Nam Chiếu thì chăn nuôi là ngành cực kỳ tiên tiến. Thủ công nghiệp tương đối phát đạt, đặc biệt xứ sở này rất nổi tiếng việc chế tạo binh khí. Tại Di Độ ở Vân Nam còn có một cái trụ bằng sắt, cho thấy trình độ đúc khí ở Nam Chiếu xưa đã phát triển thế nào.
Thời hậu kỳ của Nam Chiếu, ở Tứ Xuyên có nhiều thợ thủ công từ phương Nam đến, nên các ngành kéo dệt, trổ sơn rất phát triển. Khi giao dịch, nam Chiếu chuộng dùng tăng bạch, muối khối, thời hậu kỳ ưa dùng bối tệ (
Xã hội
[sửa | sửa mã nguồn]Văn hóa
[sửa | sửa mã nguồn]Văn học Nam Chiếu đã chịu ảnh hưởng rất nhiều chữ Hán đến từ nhà Đường, song vẫn có những thành tựu bản ngữ (tức tiếng Bạch) nhất định. Dân gian lấy chữ Hán để phỏng lại tiếng Bạch, từ đó tạo ra Chính văn của Nam Chiếu. Vào thời hậu kỳ, triều đình Nam Chiếu phái rất nhiều con em quý tộc đến Thành Đô để du học, và cũng do vậy các thi nhân Nam Chiếu đều có phong thái thơ văn, truyện phú đều rất tương đồng với nhà Đường, cụ thể có Nam Chiếu đức hóa bi (
Âm nhạc và vũ đạo của Nam Chiếu muôn màu muôn vẻ, ắt hẳn chịu những nét của dân tộc thiểu số bản địa và Đông Nam Á nói chung. Năm 745, Đường Huyền Tông từng ban cho Nam Chiếu (đời vua Mông Bì La Các) 2 bộ nhạc của người Hồ, và năm 800 thì Nam Chiếu (đời vua Mông Dị Mâu Tầm) cũng hiến Thiên Nam Điền Việt tục ca (
Nền hội họa Nam Chiếu được bảo tồn đến nay không nhiều lắm, chỉ có Nam Chiếu đồ truyện (
Dân chủng
[sửa | sửa mã nguồn]Nam Chiếu quốc khi ấy là một hỗn hợp, tương tự hợp chủng quốc, có hơn mười mấy dân tộc quy tụ, song nhiều nhất phải kể đến Bạch Man (
Ngoài ra còn có Hòa Man (
Tôn giáo
[sửa | sửa mã nguồn]Nam Chiếu có một mối liên quan mật thiết với đạo Phật, được minh chứng bằng các nghệ thuật điêu khắc đá còn tồn tại từ thời kỳ đó. Một số học giả nói rằng đạo Phật dòng Asarya của Nam Chiếu có liên quan đến Phật giáo Ari của bộ phái Mật tông đã từng tồn tại ở Pagan, Myanmar.
Đây là kết quả của việc Nam Chiếu bành trướng thế lực và lãnh thổ của mình, kiểm soát một vùng rộng lớn nay là Vân Nam và một phần lãnh thổ Miến Điện và đông bắc Ấn Độ, mở đường thông thương giữa Trung Quốc với Ấn Độ. Việc Nam Chiếu, cũng giống như nhà Đường ở Trung Quốc, và Đại Việt khi đó, theo Phật giáo đã giúp đạo Phật lan tỏa, cũng như phổ biến văn hóa và kiến trúc Ấn Độ.
Niên biểu
[sửa | sửa mã nguồn]- Đại Mông
Miếu hiệu | Thụy hiệu | Họ tên | Thời gian trị vì |
---|---|---|---|
Mông Cao Tổ | Kì Gia vương | Mông Tế Nô La (Mông Độc La) | 649-674 |
Mông Thế Tông | Hưng Tông vương | Mông La Thịnh Viêm (Mông La Thịnh) | 674-712 |
Mông Viêm Các | 712 | ||
Mông Thái Tông | Uy Thành vương | Mông Thịnh La Bì (Mông Thành Lạc Khôi) | 712-728 |
Quy Nghĩa vương | Mông Bì La Các (Mông Khôi Lạc Giác) | 728-748 | |
Thần Vũ vương | Mông Các La Phượng (Mông Giác Lạc Phượng) | 748-779 | |
Hiếu Hằng vương (Nhật Đông vương) | Mông Dị Mâu Tầm | 779-808 | |
Hiếu Huệ vương | Mông Tầm Các Khuyến (Mông Tân Giác Khuyến) | 808-809 | |
U vương | Mông Khuyến Long Thịnh (Mông Long Thịnh) | 809-816 | |
Tĩnh vương | Mông Khuyến Lợi Thịnh (Mông Khuyến Lợi) | 816-823 | |
Chiêu Thành vương | Mông Khuyến Phong Hữu (Mông Phong Hữu) | 823-859 |
- Đại Lễ
Thụy hiệu | Họ tên | Thời gian trị vì |
---|---|---|
Cảnh Trang đế | Mông Thế Long (Mông Hữu Long hay Mông Tù Long) | 859-877 |
- Đại Phong Dân
Thụy hiệu | Họ tên | Thời gian trị vì |
---|---|---|
Thánh minh văn vũ đế | Mông Long Thuấn (Mông Thế Thuấn hay Mông Pháp) | 877-897 |
Hiếu Ai đế | Mông Thuấn Hóa Trinh | 897-902 |
Thụy hiệu | Họ tên | Niên hiệu | Thời gian trị vì |
---|---|---|---|
Thánh minh văn vũ uy đức Hoàn hoàng đế | Trịnh Mãi Tự | Trung Hưng An Quốc |
902-910 |
Túc văn thái thượng hoàng đế | Trịnh Nhân Mân | Thủy Nguyên Thiên Thụy Cảnh Tinh An Hòa Trinh Hữu Sơ Lịch Hiếu Trì |
910-926 |
Cung huệ hoàng đế | Trịnh Long Đản | Hiếu Trì Thiên Ứng |
926-927 |
- Đại Thiên Hưng (Hưng Nguyên)
Thụy hiệu | Họ tên | Niên hiệu | Thời gian trị vì |
---|---|---|---|
Điệu khang hoàng đế | Triệu Thiện Chính | Tôn Thánh | 928-929 |
Thụy hiệu | Họ tên | Niên hiệu | Thời gian trị vì |
---|---|---|---|
Túc cung hoàng đế | Dương Càn Trinh | Hưng Thánh Quang Thánh |
929-930 |
Dương Chiếu (Dương Minh)[5] | Đại Minh Đỉnh Tân |
930-937 |
Chú thích
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ Stein, R. A. (1972) Tibetan Civilization, p. 63. Stanford University Press. ISBN 0-8047-0806-1 (cloth); ISBN 0-8047-0901-7 (pbk)
- ^
西川 , trị sở nay thuộc Thành Đô, Tứ Xuyên - ^ a b Tư trị thông giám, quyển 252
- ^ Cựu Đường thư, quyển 182
- ^ Đoàn Ngọc Minh, "Đại Lý quốc sử"
Tham khảo
[sửa | sửa mã nguồn]- Chan, Maung (tháng 3 năm 2005) Theravada Buddhism and Shan/Thai/Dai/Laos Regions.
- Wyatt, David K, Thailan: A short History, Yale University Press, New Haven and London, 1984