Nam Tề Minh Đế
Nam Tề Minh Đế | |||||||||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Hoàng đế Trung Hoa | |||||||||||||||||
Hoàng đế Nam Tề | |||||||||||||||||
Tại vị | 5 tháng 12 năm 494 – 1 tháng 9 năm 498 (3 năm, 270 ngày) | ||||||||||||||||
Tiền nhiệm | Tiêu Chiêu Văn | ||||||||||||||||
Kế nhiệm | Tiêu Bảo Quyển | ||||||||||||||||
Thông tin chung | |||||||||||||||||
Sinh | 452 | ||||||||||||||||
Mất | 498 (45–46 tuổi) | ||||||||||||||||
An táng | Hưng An lăng ( | ||||||||||||||||
Phối ngẫu | Xem văn bản | ||||||||||||||||
Hậu duệ | Xem văn bản | ||||||||||||||||
| |||||||||||||||||
Triều đại | Nam Tề | ||||||||||||||||
Thân phụ | Tiêu Đạo Sinh ( | ||||||||||||||||
Thân mẫu | Giang thị, truy tôn là Ý Hoàng hậu |
Nam Tề Minh Đế (chữ Hán:
Cho rằng Tiêu Chiêu Nghiệp là một hoàng đế không đủ năng lực và có ý định chống lại mình, Tiêu Loan đã tiến hành một cuộc chính biến và sát hại Tiêu Chiêu Nghiệp. Sau đó ông đưa em trai của Tiêu Chiêu Nghiệp là Tiêu Chiêu Văn lên ngôi, song chỉ sau một thời gian ngắn lại phế truất Tiêu Chiêu Văn và đoạt lấy ngai vàng. Trong thời gian trị vì, ông có những yêu cầu cao và đòi hỏi khắt khe, song lại thanh đạm. Ông được nhìn nhận là một nhân vật rất đen tối trong lịch sử vì đã thảm sát những người con trai còn sống sót của Cao Đế và Vũ Đế, mặc dù họ từng đối xử tốt với ông.
Thân thế
[sửa | sửa mã nguồn]Tiêu Loan sinh năm 452. Sử sách không rõ về tên của mẹ ông, cha ông là Tiêu Đạo Sinh (
Dưới thời Cao Đế và Vũ Đế
[sửa | sửa mã nguồn]Trong thời gian trị vì của Cao Đế và Vũ Đế, Tiêu Loan được thăng chức đều đặn cho đến cuối thời gian trị vì của Vũ Đế. Tiêu Loan cũng được công chúng và các quan lại kính mến vì có tính tiết kiệm và có thái độ khiêm tốn, ông không sử dụng các mặt hàng xa xỉ và mặc quần áo như một nho sĩ bình thường. Có một lần, Vũ Đế đã tính đến việc phong Tiêu Loan làm thượng thư phụ trách vấn đề công vụ, song vị hoàng đế này đã đổi ý sau khi ý định này bị Vương Yến (
Dưới thời Tiêu Chiêu Nghiệp
[sửa | sửa mã nguồn]Do âm mưu của Vương Dung, Tiêu Chiêu Nghiệp không tin tưởng Tiêu Tử Lương, và mặc dù Tiêu Tử Lương được trao các tước hiệu vinh dự lớn song quyền lực thực tế lại rơi vào tay Tiêu Loan. Tuy nhiên, ngay sau đó, Tiêu Chiêu Nghiệp lại tỏ ra mình là một quân chủ phù phiếm, ông ta dành hầu hết thời gian cho các yến tiệc và các trò chơi tiêu khiển và dùng cạn ngân khố thặng dư mà Cao Đế và Vũ Đế tiết kiệm mới có được. Tiêu Loan từng vài lần cố khuyên nhủ Tiêu Chiêu Nghiệp thay đổi song không có kết quả, thậm chí Tiêu Chiêu Nghiệp còn bắt đầu nghi ngờ Tiêu Loan và muốn giết chết Tiêu Loan, song đã không thể làm như vậy, đặc biệt là sau khi tham khảo ý kiến của thúc tổ (con trai Cao Đế) là Bà Dương vương Tiêu Thương (
Tuy nhiên, đến mùa thu năm 494, Tiêu Chiêu Nghiệp đã hết kiên nhẫn với Tiêu Loan, và ông đã bí mật lập mưu cùng thúc phụ của Hà Hoàng hậu- Hà Dận (
Dưới thời Tiêu Chiêu Văn
[sửa | sửa mã nguồn]Khi lên ngôi, Tiêu Chiêu Văn mới 14 tuổi, quyền lực trên thực tế nằm trong tay Tiêu Loan, và Tiêu Loan tự phong cho mình tước Tuyên Thành quận công, sau đó là Tuyên Thành vương. Dưới danh nghĩa Tiêu Chiêu Văn, Tiêu Loan ngay sau đó đã tiến hành xử tử một số lượng lớn các thân vương là con trai của Cao Đế và Vũ Đế, những người mà ông ta xem là một mối đe dọa với mình:
- Tiêu Thương (
蕭 鏘), Bà Dương vương, con trai Cao Đế - Tiêu Tử Long (
蕭 子 隆 ), Tùy quận công, con trai Vũ Đế - Tiêu Tử Mậu (
蕭 子 懋), Tấn An vương, con trai Vũ Đế - Tiêu Tử Kính (
蕭 子 敬 ), An Lục vương, con trai Vũ Đế - Tiêu Nhuệ (
蕭 銳 ), Nam Bình vương, con trai Cao Đế - Tiêu Cầu (
蕭 銶), Tấn Hi vương, con trai Cao Đế - Tiêu Khanh (
蕭 鏗), Nghi Đô vương, con trai Cao Đế - Tiêu Thước (
蕭 鑠), Quế Dương vương, con trai Cao Đế - Tiêu Quân (
蕭 鈞 ), Hành Dương vương, con trai Cao Đế - Tiêu Phong (
蕭 鋒 ), Giang Hạ vương, con trai Cao Đế - Tiêu Tử Chân (
蕭 子 真 ), Kiến An vương, con trai Vũ Đế - Tiêu Tử Luân (
蕭 子 倫 ), Ba Lăng vương, con trai Vũ Đế - Tiêu Tử Khanh (
蕭 子 卿 ), Lư Lăng vương, con trai Vũ Đế
Ban đầu, em trai Tiêu Chiêu Văn là Lâm Hải quận vương Tiêu Chiêu Tú (
Trị vì
[sửa | sửa mã nguồn]Minh Đế thường được xem là một quân chủ thông minh và có tính thanh đạm. Tuy nhiên, ông cũng có tính đa nghi, và chỉ có vài đại thần cấp cao là có thể cảm thấy an toàn trong thời gian ông trị vì. Ông cũng tiếp tục sát hại (định kỳ) các hậu duệ của Cao Đế và Vũ Đế do nghĩ rằng họ sẽ là mối đe dọa với các con trai ông. Mỗi lần tiến hành các vụ giết chóc, đầu tiên ông sẽ thắp hương cúng (có lẽ là Cao Đế và Vũ Đế) và than khóc cay đắng trước khi thực hiện các hành động.
Minh Đế lập con trai thứ hai-Tiêu Bảo Quyển làm thái tử, lý do là vì người con trai cả Tiêu Bảo Nghĩa (
Trong khi đó, Bắc Ngụy Hiếu Văn Đế đã sử dụng việc Minh Đế soán ngôi làm cớ để tiến hành một cuộc tấn lớn chống lại Nam Tề vào cuối năm 494. Tuy nhiên, sau một số trận đánh bất phân thắng bại, quân Bắc Ngụy đã từ bỏ chiến dịch vào mùa xuân năm 495. Ngay sau khi chiến dịch kết thúc, Minh Đế đã xử tử Tiêu Kham, một tướng cộng tác với ông trong cuộc chính biến chống lại Tiêu Chiêu Nghiệp, và các huynh đệ của Tiêu Kham do ông nghi ngờ Tiêu Kham âm mưu tiến hành chính biến. Ngoài ra, Minh Đế cũng vu cáo một số thân vương (con trai của Vũ Đế) là đồng mưu với Tiêu Kham, bao gồm Tây Dương vương Tiêu Tử Minh (
Vào mùa thu năm 497, Bắc Ngụy Hiếu Vũ Đế lại mở một cuộc tấn công lớn khác chống Nam Tề. Lần này, hai bên phần lớn vẫn bất phân thắng bại, song trọng thành biên giới là Uyển Thành (
- Tiêu Huyễn (
蕭 鉉), Hà Đông vương, con trai Cao Đế - Tiêu Tử Nhạc (
蕭 子 岳 ), Lâm Hạ vương, con trai Vũ Đế - Tiêu Tử Văn (
蕭 子 文 ), Tây Dương vương, con trai Vũ Đế - Tiêu Tử Tuấn (
蕭 子 峻 ), Hành Dương vương, con trai Vũ Đế - Tiêu Tử Lâm (
蕭 子 琳), Nam Khang vương, con trai Vũ Đế - Tiêu Tử Dân/Mân (
蕭 子 珉), Vĩnh Dương vương, con trai Vũ Đế - Tiêu Tử Kiến (
蕭 子 建 ), Tương Đông vương, con trai Vũ Đế - Tiêu Tử Hạ (
蕭 子 夏 ), Nam quận vương, con trai Vũ Đế - Tiêu Chiêu Xán (
蕭 昭 粲 ), Quế Dương vương, con trai Tiêu Trường Mậu - Tiêu Chiêu Tú (
蕭 昭秀 ), Ba Lăng vương, con trai Tiêu Trường Mậu
Trong các vụ việc, Minh Đế đã làm một điều đặc biệt bất thường, ông ra lệnh cho các đại thần cấp cao buộc tội các thân vương và thỉnh cầu xử tử họ, Minh Đế ban đầu sẽ từ chối các đề xuất rồi sau lại chấp thuận.
Vào mùa hè năm 498, tướng về hưu Vương Kính Tắc (
Ba tháng sau, ngày Minh Đế qua đời vào ngày Kỉ Dậu (30) tháng 7 năm Mậu Dần, tức 1 tháng 9 năm 498 ở Chính Phúc điện. Thái tử Bảo Quyển lên ngôi kế vị (sau được biết đến với tước Đông Hôn hầu).
Hậu phi
[sửa | sửa mã nguồn]- Lưu Huệ Đoan (
劉 惠 端 ), mất năm 489, được truy tôn là Kính Hoàng hậu, sinh Tiêu Bảo Quyển, Tiêu Bảo Huyền, Tiêu Bảo Dần, Tiêu Bảo Dung. - Ân quý tần, sinh Tiêu Bảo Nghĩa, Tiêu Bảo Tung.
- Viên quý phi, sinh Tiêu Bảo Nguyên.
- Quản thục phi, sinh Tiêu Bảo Du.
- Hứa thục viện, sinh Tiêu Bảo Trinh.
- Phan thị
Con cái
[sửa | sửa mã nguồn]- Con trai
- Tiêu Bảo Nghĩa (
蕭 寶 義 ), năm 494 được làm Tấn An quận vương, năm 502 được nhà Lương phong làm Tạ Mộc huyện công, cũng trong năm 502 được nhà Lương phong làm Ba Lăng Ẩn vương, mất năm 509. - Tiêu Bảo Quyển (
蕭 寶 卷 ), năm 494 được làm thái tử, sau trở thành hoàng đế. - Tiêu Bảo Huyền (
蕭 寶 玄 ), năm 494 được làm Giang Hạ vương, mất năm 500. - Tứ tử mất sớm.
- Tiêu Bảo Nguyên (
蕭 寶 源 ), năm 494 được làm Lư Lăng vương, mất năm 502. - Tiêu Bảo Dần (
蕭 寶 寅 ), năm 494 được làm Kiến An vương, năm 501 được cải phong làm Bà Dương vương, năm 503 được Bắc Ngụy phong làm Tề vương, tự xưng hoàng đế tái lập Nam Tề (xưng năm 527, từ bỏ năm 528, buộc phải tự sát năm 530). - Thất tử mất sớm.
- Tiêu Bảo Dung (
蕭 寶 融 ), năm 494 được phong làm Tùy quận vương, năm 499 được cải phong Nam Khang vương, sau trở thành Nam Tề Hòa Đế. - Tiêu Bảo Du (
蕭 寶 攸), năm 494 được phong làm Nam Bình vương, năm 495 được cải phong làm Thiệu Lăng vương, bị Tiêu Diễn xử tử vào năm 502. - Tiêu Bảo Tung (
蕭 寶 嵩 ), Tấn Hi vương, bị Tiêu Diễn xử tử năm 502. - Tiêu Bảo Trinh (
蕭 寶 貞 ), Quế Dương vương, bị Tiêu Diễn xử tử năm 502.