Thổ dân Đài Loan
Bài viết này có nhiều vấn đề. Xin vui lòng giúp đỡ cải thiện nó hoặc thảo luận về những vấn đề này trên trang thảo luận.
|
Bạn có thể mở rộng bài này bằng cách dịch bài viết tương ứng từ Tiếng Anh. (tháng 10/2023) Nhấn [hiện] để xem các hướng dẫn dịch thuật.
|
Thổ dân Đài Loan hay Dân tộc thiểu số Đài Loan (tiếng Trung:
Trong hàng trăm năm, những người dân tộc thiểu số Đài Loan đã trải qua những sự cạnh tranh về kinh tế và xung đột quân sự với những người muốn thuộc địa hóa hòn đảo. Các chính sách của Chính phủ trung ương nhằm thúc đẩy đồng hóa về ngôn ngữ và văn hóa, cũng như việc tiếp tục tiếp xúc với những người thực dân thông qua thương mại, kết hôn và các quá trình xuyên văn hóa khác, đã dẫn tới kết quả là nhiều ngôn ngữ đã rơi vào tuyệt chủng và mất đi các đặc tính văn hóa cổ truyền. Ví dụ, trong xấp xỉ 26 ngôn ngữ được biết đến của thổ dân Đài Loan (được xếp vào Nhóm ngôn ngữ Formosa), có ít nhất mười ngôn ngữ của Austronesia đã tuyệt chủng, 5 ngôn ngữ có nguy cơ cao (Zeitoun & Yu 2005:167) và một vài ngôn ngữ đang gặp nguy hiểm. Các ngôn ngữ này có ý nghĩa độc nhất về mặt văn hóa-lịch sử-xã hội trong khi hầu hết các nhà ngôn ngữ học coi Đài Loan là nơi xuất phát của Ngữ hệ Nam Đảo.[1] Chính phủ Đài Loan đang cố bảo vệ quyền lợi và duy trì bảo tồn cũng như phát huy người thổ dân, bao gồm các quyền bình đẳng và quyền lợi ở kinh tế-chính trị-xã hội.
Những người dân tộc nói thứ tiếng Nam Đảo tại Đài Loan trước đây phân bổ chủ yếu trong các khu vực dãy núi hiểm trở ở trung tâm hòn đảo và tập trung trong các ngôi làng dọc theo các đồng bằng phù sa. Năm 2009, tổng dân số của họ là khoảng 499.500 (xấp xỉ 2% tổng dân số Đài Loan). Phần lớn dân tộc thiểu số Đài Loan hiện sống tại các vùng đồi núi và các thành phố.
Những người bản địa Đài Loan phải đối mặt với các rào cản về kinh tế và xã hội, bao gồm một tỷ lệ thất nghiệp cao và trình độ giáo dục thấp. Nhiều nhóm dân tộc tích cực tìm kiếm mức độ tự quyết định cao hơn về chính trị và phát triển kinh tế từ đầu thập kỷ 1980.(Hsu 1991:95–9) Một sự hồi sinh của niềm tự hào dân tộc được những người dân tộc thiểu số Đài Loan thể hiện bằng nhiều cách, bao gồm kết hợp các yếu tố của nền văn hóa của họ vào nhạc pop. Các nỗ lực đang được tiến hành lớn trong các cộng đồng bản địa để phục hồi và chấn hưng các truyền thống văn hóa và bảo tồn ngôn ngữ truyền thống của họ. Một số nhóm dân tộc đang phát triển các ngành công nghiệp liên quan đến du lịch và du lịch sinh thái để tăng tính tự chủ về kinh tế và thậm chí có thêm quyền lực về chính trị cùng đời sống.[2]
Phân loại
[sửa | sửa mã nguồn]Ở mức độ cụ thể hơn, dân tộc thiểu số Đài Loan bao gồm các sắc tộc sau:
- Amis (Ami, Pangcah) (
阿 美 , A Mỹ) - Atayal (Tayal, Tayan) (
泰 雅 , Thái Nhã)- Atayal (chính)
- Bunun (
布 農 , Bố Nông) - Kavalan (噶瑪
蘭 , Cát Mã Lan) - Paiwan (
排 灣 , Bài Loan) - Puyuma (卑南, Ty Nam)
- Rukai (魯凱, Lỗ Khải)
- Saisiyat (Saisiat) (
賽 夏 , Tái Hạ) - Thao (邵, Thiệu)
- Tsou (Cou) (鄒, Trâu)
- Truku (Taroko) (
太 魯閣, Thái Lỗ Các)- Sediq (
賽 德 克 , Tái Đức Khắc)
- Sediq (
- Tao (Yami) (
達 悟 /雅美 , Đạt Ngộ/Nha Mỹ)
Và một số dân tộc khác là:
- Babuza (貓霧捒, Miêu Vụ)
- Basay (
巴 賽 , Ba Tái) - Hoanya (
洪 雅 , Hồng Nhã hoặc洪 安 雅 , Hồng An Nhã) - Ketagalan (凱達
格 蘭 , Khải Đạt Cách Lan) - Luilang (
雷 朗 , Lôi Lãng) - Pazeh /Kaxabu (Pazih) (
巴 宰 , Ba Tể hay巴 則 海 , Ba Tắc Hải) - Popora (
巴 布 拉 , Ba Bố Lạp) - Qauqaut (猴猴, Hầu Hầu)
- Siraya (
西 拉 雅 , Tây Lạp Nhã) - Taokas (
道 卡斯, Đạo Ca Tư) - Trobiawan
多 囉美, Đa La Mỹ hoặc多 囉美遠 , Đa La Mỹ Viễn)
Xem thêm
[sửa | sửa mã nguồn]Tư liệu liên quan tới Aborigines of Taiwan tại Wikimedia Commons
Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Thổ dân Đài Loan. |
Tham khảo
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ (Blust 1999)
- ^ (Anderson 2000:283–90)