Người Orok
Oroks tên khác: Orok, Ul'ta, Ulcha, Uil'ta, Nani | |
---|---|
Một nhóm người Uilta | |
Tổng dân số | |
360 (dự tính) | |
Khu vực có số dân đáng kể | |
![]() ![]() | |
Ngôn ngữ | |
tiếng Orok, tiếng Nga, tiếng Nhật | |
Tôn giáo | |
Shaman giáo, Chính Thống giáo Nga | |
Sắc tộc có liên quan | |
Ainu, Nivkh, Itelmen, Even, Koryak, Evenk, Ulch, Nanai, Oroch, Udege |
Orok (Ороки trong tiếng Nga; tên tự gọi: ульта, ulta, ulcha) hay Ngạc La Khắc (鄂羅
Từ nguyên[sửa | sửa mã nguồn]
Tên gọi Orok được cho là bắt nguồn từ tên tự gọi Oro để chỉ một nhóm người Tungus nghĩa là "một con tuần lộc nuôi". Tên tự gọi của người Orok là Ul'ta, có thể có nguồn gốc từ Ula (nghĩa là "tuần lộc nuôi" trong tiếng Orok). Tên tự gọi khác là Nani.[1] Đôi khi, người Orok, cũng như người Oroch và người Udege bị gọi sai thành người Orochon.
Lịch sử[sửa | sửa mã nguồn]
Đế quốc Nga giành quyền kiểm soát đối với toàn bộ khu vực của người Orok sau Điều ước Ái Hồn năm 1858 và Điều ước Bắc Kinh năm 1860.[2] Một thuộc địa hình sự nhỏ được lập ra tại Sakhalin từ năm 1857 đến 1906 và có một số lượng lớn tội phạm và tù chính trị người Nga, trong đó bao gồm Lev Sternberg, một nhà dân tộc học quan trọng vào thời kỳ đầu về người Orok và các dân tộc bản địa khác trên đảo là người Nivkh và người Ainu.[3] Nga tiến hành Cách mạng tháng 10 và sau đó lập nên Liên Xô vào năm 1922; chính quyền mới chính sách đế quốc trước đây đối với người Oroks và đưa họ vào ý thức hệ cộng sản.[4] Trước công cuộc Tập thể hóa Liên Xô vào thập niên 1920, người Orok được chia thnahf 5 nhóm, một nhóm có vùng di trú riêng của mình.[5]
Sau chiến tranh Nga-Nhật, miền nam Sakhalin nằm dưới quyền kiểm soát của Đế quốc Nhật Bản, đặt dưới sự quản lý của tỉnh Karafuto. Người Uilta được phân loại là "dân bản địa Karafuto" (
Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]
- ^ Kolga 2001, tr. 281–284
- ^ Kolga 2004, tr. 270
- ^ Shternberg & Grant 1999, tr. xi
- ^ Shternberg & Grant 1999, tr. 184–194
- ^ "Indigenous Peoples of the Russian North, Siberia and Far East" Lưu trữ 2009-08-07 tại Wayback Machine by Arctic Network for the Support of the Indigenous Peoples of the Russian Arctic
- ^ Weiner 2004, tr. 364–365
- ^ Suzuki 1998, tr. 168
- ^ Weiner 2004, tr. 274–275
- ^ Suzuki 2009
Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]
- Kolga, Margus (2001), “Nivkhs”, The Red Book of the Peoples of the Russian Empire, Tallinn, Estonia: NGO Red Book, ISBN 9985-9369-2-2
- Shternberg, Lev Iakovlevich; Grant, Bruce (1999), The Social Organization of the Gilyak, New York: American Museum of Natural History, ISBN 0-295-97799-X
- Suzuki, Tessa Morris (1998), “Becoming Japanese: Imperial Expansion and Identity Crises in the Early Twentieth Century”, trong Minichiello, Sharon (biên tập), Japan's competing modernities: issues in culture and democracy, 1900-1930, University of Hawaii Press, tr. 157–180, ISBN 9780824820800
上原 善 広 [Suzuki Tetsuo], “「平和 の島 」が「スパイの島 」に [From "Peace Island" to "Spy Island"]”, Kodansha G2, 4 (2), Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 3 năm 2016, truy cập ngày 18 tháng 3 năm 2012- Weiner, Michael (2004), Race, Ethnicity and Migration in Modern Japan: Imagined and imaginary minorities, Taylor and Francis, ISBN 9780415208574
Đọc thêm[sửa | sửa mã nguồn]
- Missonova, Lyudmila I. (2009). The Main Spheres of Activities of Sakhalin Uilta: Survival Experience in the Present-Day Context. Sibirica: Interdisciplinary Journal of Siberian Studies, 8:2, 71–87. Abstract available here Lưu trữ 2013-01-03 tại Archive.today (retrieved ngày 9 tháng 11 năm 2009).
- Ороки. -- Народы Сибири, Москва—Ленинград 1956.
- Т. Петрова, Язык ороков (ульта), Москва 1967.
- А. В. Смоляк, Южные ороки. -- Советская этнография 1, 1965.
- А. В. Смоляк, Этнические процессы у народов Нижнего Амура и Сахалина, Москва 1975.