(Translated by https://www.hiragana.jp/)
Taaffeite – Wikipedia tiếng Việt Bước tới nội dung

Taaffeite

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Taaffeite
Magnesiotaaffeite-2N’2S (Mg3Al8BeO16)
Thông tin chung
Thể loạiKhoáng vật oxide
Công thức hóa họcBeMgAl4O8
Phân loại Strunz4.FC.25
Hệ tinh thểHệ tinh thể lục phương
Lớp tinh thểChóp lưỡng giác (6mm)
Chóp tam giác (3m)
(magnesiotaaffeite-6N'3S and ferrotaaffeite-6N'3S)
Nhận dạng
MàuKhông màu, tìm khói, tía, đỏ, xanh, xanh sáng, tím hồng, hoa cà
Dạng thường tinh thểPrismatic, alluvial grains
Song tinhBy reflection on (0001)?
Cát khaiImperfect/fair/absent
Vết vỡvỏ sò
Độ cứng Mohs8–8.5
ÁnhÁnh pha lê
Màu vết vạchTrắng
Tính trong mờTừ trong suốt đến trong mờ
Tỷ trọng riêng3,60–3,61
Thuộc tính quangUniaxial
Chiết suấtnωおめが = 1,722, nεいぷしろん = 1,777
Khúc xạ képδでるた = 0,055
Đa sắcYếu
Tham chiếu[1][2]

Taaffeite (/ ˈtɑːfaɪt /; BeMgAl4O8) là một loại khoáng sản, được đặt tên theo người khám phá ra nó, Richard Taaffe (1898–1967), người đã tìm thấy mẫu vật đầu tiên của loại khoáng sản này, vào tháng 10 năm 1945 tại một cửa hàng trang sức ở Dublin, Ireland[3][4]. Phần lớn đá quý, trước Taaffe, đã được xác định sai là spinel. Trong nhiều năm sau đó, nó đã được biết đến chỉ trong một vài mẫu, và nó vẫn là một trong những khoáng sản đá quý hiếm nhất trên thế giới.[5]

Kể từ năm 2002, Hiệp hội khoáng vật quốc tế đã phê duyệt tên cho taaffeite như một khoáng chất có tên là magnesiotaaffeite-2N'2S.

Phát hiện

[sửa | sửa mã nguồn]

Taaffe đã mua một số viên đá quý từ một thợ kim hoàn vào tháng 10 năm 1945. Khi nhận thấy sự khác nhau giữa taaffeite và spinel, Taaffe đã gửi một số ví dụ cho BW Anderson của Phòng Thương mại Luân Đôn để nhận dạng vào ngày 1 tháng 11 năm 1945. Khi Anderson trả lời Ngày 5 tháng 11 năm 1945, anh đã nói với Taaffe rằng họ không chắc liệu đó có phải là một loại tương tự như spinel hay phải chăng là một loại khoáng sản mới.

Tính chất

[sửa | sửa mã nguồn]

Năm 1951, sau khi phân tích các thành phần hóa học và chụp X-quang đã xác nhận các thành phần chính của taaffeite như beryli, magnesi và nhôm, làm cho taaffeit trở thành khoáng sản đầu tiên có chứa cả beryli và magnesi làm thành phần thiết yếu.[1]

Sự nhầm lẫn giữa spinel và taaffeite là dễ hiểu vì một số tính năng cấu trúc giống hệt nhau ở cả hai loại này. Anderson và cộng sự[6], đã phân loại taaffeite như một khoáng chất trung gian giữa spinel và chrysoberyl. Không giống như spinel[7], taaffeite hiển thị đặc tính khúc xạ kép, điều này đã cho phép phân biệt giữa hai khoáng chất này.

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b Thomas, Arthur (2008) Gemstones: properties, identification and use. New Holland Publishers. p. 74. ISBN 1-84537-602-1
  2. ^ Magnesiotaaffeite, Mindat
  3. ^ Dept. Mineralogy, British Museum, ngày 7 tháng 6 năm 1951 Taaffeite, a new beryllium mineral, found as a cut gem-stone. Retrieved February 2015
  4. ^ Papers and proceedings of the International Mineralogical Association. General meeting, Mineralogical Society of America, Volume 9, p. 502
  5. ^ Collings, Michael R (2009). Gemlore: An Introduction to Precious and Semi-Precious Stones (2nd Ed). p. 152. Wildside Press LLC. ISBN 1-4344-5702-8
  6. ^ Anderson, B.W., Payne, C.J., and Claringbull, G.F., (1951) Taaffeite, a new beryllium mineral, found as a cut gemstone. Mineralogical Magazine 29, pp. 765–772
  7. ^ Institut mineralogii, geokhimii, i kristallokhimii redkikh ėlementov (1966). Geochemistry and mineralogy of rare elements and genetic types of their deposits, Volume 2. Institut mineralogii, geokhimii i kristallokhimii redkikh elementov. (English Version Publisher: Israel Program for Scientific Translations). pp. 77–79.

Lỗi chú thích: Thẻ <ref> có tên “dodgy1” được định nghĩa trong <references> không được đoạn văn bản trên sử dụng.
Lỗi chú thích: Thẻ <ref> có tên “gemm” được định nghĩa trong <references> không được đoạn văn bản trên sử dụng.

Lỗi chú thích: Thẻ <ref> có tên “geo” được định nghĩa trong <references> không được đoạn văn bản trên sử dụng.