Tam giới
![]() | Các ví dụ và quan điểm trong bài viết này có thể không thể hiện tầm nhìn toàn cầu về chủ đề này. |
Tam giới (tiếng Trung:
Phật giáo[sửa | sửa mã nguồn]
Khái niệm Tam giới này có thể hiểu là Vũ trụ quan của đạo Phật. Tam giới bao gồm: cõi Dục, cõi Sắc và cõi Vô Sắc. Tất cả chúng sanh ở trong Tam Giới, gọi là loài Hữu tình, đều tái sinh theo hướng Lục đạo (tiếng Phạn: gati).
Cõi Dục[sửa | sửa mã nguồn]
Dục giới hay cõi Dục (zh.
- Địa ngục (zh.
地獄 , sa. naraka) - Ma đói (zh.
餓鬼 , sa. preta) - Loài vật (zh.
畜生 , sa. paśu) - Loài người (zh.
人世 , sa. nāra) - Cõi thần (zh.
阿修羅 , sa. asura) - 6 Cõi trời dục (lục dục thiên
六 欲 天 ):
- Trời Tứ thiên vương (zh.
四天王 , sa. cāturmahārājika); - Trời Đao lợi[1] (忉利) hay trời Ba mươi ba (zh.
三 十 三 天 , sa. trayastriṃśa); - Trời Dạ ma (zh.
夜 摩 , sa. yāmadeva) hoặc trời Tu dạ ma (zh. 須夜摩 天 , sa. suyāma); - Trời Đâu suất (zh.
兜 率 天 , sa. tuṣita); - Trời Hoá lạc (zh.
化 樂天 , sa. nirmāṇarati); - Trời Tha hoá tự tại (zh.
他 化 自 在天 , sa. paranirmitavaśavarti);
- Trời Tứ thiên vương (zh.
Chúng sinh ở cõi Dục giới tuy hưởng dục lạc khác nhau (ở cõi trên thì sung sướng hơn cõi dưới), nhưng nói chung đều chịu những nỗi khổ: hành khổ (không thoát được luân hồi, đã sinh ra thì phải có lúc chết đi), hoại khổ (thể xác và những dục lạc được hưởng rồi sẽ mất đi chứ không duy trì được mãi), bất tác ý khổ (không đạt được ham muốn nên buồn khổ). Những chúng sinh ở 3 cõi thấp tức tam ác đạo (địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh) thì gần như không có sung sướng mà chỉ có khổ đau. Trừ cõi người, địa ngục, súc sanh tất cả chúng sinh cõi khác đều có Ngũ thông bẩm sinh. Cõi người và súc sanh không có vì bị chướng ngại thân xác vật lí, cõi quỷ thần không có thân, cõi trời là do phước báu nên có cả thân và thần thông. Người có thần thông do tu luyện chứng đắc thiền định hoặc do nghiệp tiền kiếp, phước báu đời trước, tu phước cầu thần thông.
Cõi Sắc[sửa | sửa mã nguồn]
Sắc giới hay cõi Sắc (zh.
Sắc giới gồm bốn cõi, mỗi cõi lại được chia thành nhiều cõi trời khác nhau. Những người tu thiền đã đạt đến Tứ thiền định, khi thọ mạng hết thì tùy mức chứng đắc mà có thể sinh vào 1 trong 4 xứ này (ví dụ: người chứng đắc được Nhị thiền thì sẽ tái sinh vào cõi Nhị thiền trong Sắc giới).
- Trời Sơ thiền (zh.
初 禪 天 ) với ba cõi sau:
- Trời Phạm thiên (zh. 梵身
天 , sa. brahmakāyika); - Trời Phạm phụ (zh. 梵輔
天 , sa. brahmapurohita); - Trời Đại phạm (zh.
大 梵天 , sa. mahābrahmā). - Có hệ thống ghi thêm cõi trời thứ tư của trời Sơ thiền là trời Phạm chúng (zh. 梵眾
天 , sa. brahmaparśadya).
- Trời Nhị thiền (zh.
二 禪 天 ) với ba cõi sau:
- Trời Thiểu quang (zh.
少 光 天 , sa. parīttābha); - Trời Vô lượng quang (zh.
無量 光 天 , sa. apramāṇābha); - Trời Cực quang tịnh (zh.
極光 淨 天 , sa. abhāsvara, kiểu dịch cũ là trời Quang âm (zh.光 音 天 ).
- Trời Tam thiền (zh.
三 禪 天 ) bao gồm:
- Trời Thiểu tịnh (zh.
少 淨 天 , sa. parīttaśubha); - Trời Vô lượng tịnh (zh.
無量 淨 天 , sa. apramāṇaśubha); - Trời Biến tịnh (zh.
遍 淨 天 , sa. śubhakṛtsna).
- Trời Tứ thiền (zh.
四 禪 天 ) gồm có:
- Trời Vô vân (zh.
無 雲 天 , sa. anabhraka); - Trời Phúc sinh (zh.
福生 天 , sa. puṇyaprasava); - Trời Quảng quả (zh.
廣 果 天 , sa. bṛhatphala); - Trời Vô tưởng (zh.
無想 天 , sa. asāṃjñika); - Trời Vô phiền (zh.
無 煩 天 , sa. avṛha); - Trời Vô nhiệt (zh.
無熱 天 , sa. atapa); - Trời Thiện kiến (zh.
善 見 天 , sa. sudarśana); - Trời Sắc cứu cánh (zh.
色 究竟 天 , sa. akaniṣṭha); - Trời Hoà âm (zh.
和音 天 , sa. aghaniṣṭha); - Trời Đại tự tại (zh.
大 自 在天 , sa. mahāmaheśvara). - Có sách xếp trời Vô tưởng, trời Vô phiền, trời Vô nhiệt, trời Thiện kiến, trời Sắc cứu kính, trời Hoà âm thuộc trời Tịnh phạm (zh.
淨 梵天 ), không thuộc về trời Tứ thiền.
Chúng sinh ở cõi Sắc giới không phải chịu bất tác ý khổ (không đạt được ham muốn nên buồn khổ) bởi họ đã trừ hết những ham muốn về giới tính, thể xác. Nhưng họ vẫn chịu hành khổ (không thoát được luân hồi), hoại khổ (do vẫn có thể xác nên thể xác đó rồi cũng tới lúc phải hư hoại rồi chết).
Cõi Vô sắc[sửa | sửa mã nguồn]
Vô sắc giới hay cõi Vô sắc (zh.
Vô sắc giới gồm các tầng trời:
- Xứ Không vô biên (zh.
空 無邊 處 , sa. ākāśanantyāyatana); - Xứ Thức vô biên (zh. 識無
邊 處 , sa. vijñānanantyāyatana); - Xứ Vô sở hữu (zh.
無 所有 處 , sa. ākiṃcanyāyatana); - Xứ Phi tưởng phi phi tưởng (zh.
非 想 非 非 想 處 , sa. naivasaṃjñā-nāsaṃjñāyatana).
- Hành giả tu học thiền đến cảnh giới cao, trên mức tứ thiền định (từ Không vô biên xứ trở lên) có thể sinh vào bốn xứ này.
Chúng sinh ở cõi Vô Sắc không phải chịu bất tác ý khổ (không đạt được ham muốn nên buồn khổ) bởi họ đã trừ hết những ham muốn về giới tính, thể xác. Họ cũng không phải chịu hoại khổ (do không còn thể xác nên không lo bản thân bị hư hoại). Nhưng họ vẫn chịu hành khổ (không thoát được luân hồi), tức là đến lúc hết phước báu, thọ mạng của họ sẽ hết và họ sẽ phải chết đi, luân hồi sang kiếp khác vì cảnh giới này cao nhất Phi tưởng Phi-Phi tưởng tâm không có phiền não trong 84 000 Đại kiếp (84000×1.334.240.000 năm) cũng là thọ mạng của họ, hết thời hạn lập tức đọa xuống tầng trời thấp hơn, cảnh giới này không duy trì vĩnh viễn và nằm trong luân hồi.
Phi Tam giới[sửa | sửa mã nguồn]
Trên tam giới còn có các cõi phi tam giới như: Thinh Văn Giác, Phật Độc Giác và Phật Toàn Giác, đây là cõi của những chúng sinh đã chấm dứt phiền não và thoát khỏi luân hồi vĩnh viễn.
Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]
佛 光 大 辭典 .佛 光 大 辭典 編修 委員 會 . Taipei: Fo-kuang ch'u-pan-she, 1988. (Phật Quang Đại Từ điển. Phật Quang Đại Từ điển biên tu uỷ viên hội. Đài Bắc: Phật Quang xuất bản xã, 1988.)- Das Lexikon der Östlichen Weisheitslehren, Bern 1986.
Bảng các chữ viết tắt |
---|
bo.: Bod skad བོད་སྐད་, tiếng Tây Tạng | ja.: pi.: Pāli, tiếng Pali | sa.: Sanskrit संस्कृतम्, tiếng Phạn | zh.: |