Lý Hạ
Lý Hạ (chữ Hán:
Lý Hạ | |
---|---|
![]() Hình minh họa Lý Hạ trong cuốn sách Vãn tiếu Đường trúc trang hoạch truyện ( | |
Sinh | 790 hoặc 791 Quận Lạc Dương, Hà Nam, Trung Quốc |
Mất | 816 hoặc 817 (25, 26 hoặc 27 tuổi) Quận Lạc Dương, Hà Nam, Trung Quốc |
Nghề nghiệp | Nhà thơ |
Tên tiếng Trung | |
Phồn thể | |
Giản thể | |
Bính âm Hán ngữ | Lǐ Hè |
Wade–Giles | Li3 Ho4 |
Tên tự: Trường Cát | |
Phồn thể | |
Giản thể | 长吉 |
Bính âm Hán ngữ | Trường Cát |
Biệt hiệu: Thi Quỷ | |
Phồn thể | |
Giản thể | 诗鬼 |
Nghĩa đen | Quỷ làm thơ |
Bính âm Hán ngữ | Shīguǐ |
Biệt hiệu: Quỷ Tài | |
Tiếng Trung | |
Nghĩa đen | Tài năng của ma quỷ |
Bính âm Hán ngữ | Guǐcái |
Danh tiếng và tên tuổi của Lý Hạ trong nền văn học Trung Quốc đã được lưu truyền suốt nhiều thế kỷ. Vào thời nhà Thanh, các hậu bối tại Trung Quốc đã học theo phong cách thơ có một không hai của ông. Dưới triều Thanh, danh tiếng làm thơ của ông đã vấp phải thay đổi lớn trong thị hiếu văn học khi những tác phẩm của ông bị lược khỏi cuốn Đường thi tam bách thủ nổi tiếng, tuy nhiên những người yêu thơ dần tái chú ý đến ông trong thế kỉ 20. Lý Hạ là một trong số những nhà thơ Đường được Mao Trạch Đông ngưỡng mộ nhất.
Cuộc đời
sửaTư liệu
sửaChương 137 trong cuốn Cựu Đường thư[a][1] và chương 203 trong cuốn Tân Đường thư[b] đều ghi chép ngắn gọn, vắn tắt về cuộc đời của Lý Hạ.[2] Một nhà thơ đương thời là Lý Thương Ẩn cũng viết một cuốn tiểu sử mang tên Lý Hạ tiểu truyện (phồn thể:
Xuất thân
sửaGia đình của Lý Hạ có dòng dõi hoàng tộc từ lâu đời (họ Lý là gia tộc cai trị đất nước dưới triều Đường),[6] nhưng gia tài của nhánh tộc Lý Hạ vốn đã bị suy vi từ sớm, do đó vào thời của thi sĩ này họ chỉ đứng ở cấp bậc thấp.[7] Cả hai bộ quốc sử triều Đường thường xem ông là "hậu duệ của Trịnh Vương", nhưng lại nảy ra tranh cãi về danh tính của Trịnh Vương.[8] Một vài học giả ủng hộ giả thuyết rằng gốc gác của Lý có liên quan đến Lý Lượng (sống dưới thời nhà Tùy) là một người chú của Lý Uyên, hoàng đế nhà Đường đầu tiên.[8] Có giả thuyết khác cho rằng dòng dõi của vị thi sĩ có liên hệ tới Lý Nguyên Ý, con trai thứ 13 của Lý Uyên.[8]
Những năm đầu đời
sửaLý Hạ sinh vào năm 790 hoặc 791.[c] Dường như Lý chào đời vào năm Ngọ, vì 23 trong số các bài thơ còn sót lại của ông đều dùng con ngựa làm biểu tượng cho ông.[6] Ông là người gốc huyện Phúc Xương, tức phía Tây huyện Nghi Dương, tỉnh Hà Nam, Trung Quốc ngày nay.[9][d] Lý bắt đầu sáng tác thơ từ năm 7 tuổi, đến năm 15 tuổi ông được đem so sánh với danh sĩ nhạc phủ Lý Ích.[7]
Sự nghiệp chính trị
sửaNăm 20 tuổi, Lý Hạ cố gắng tham gia khoa cử, nhưng rồi bị cấm thi vì phạm vào húy kỵ: tên cha ông, Lý Tấn Túc có từ "Tấn" đồng âm với từ "Tiến" trong Tiến sĩ, chức vị ông sẽ được sắc phong nếu đỗ đạt.[10] Cuốn học thuật Ueki et al. (1999) suy đoán rằng đây là một cái cớ mà các đối thủ của Lý – những kẻ đố kị với tài năng thi ca của ông bày ra, nhằm ngăn vị thi sĩ dự thi.[11] Một danh sĩ nổi tiếng đương thời là Hàn Dũ vì mến tài ông mà viết bài Húy biện (
Bệnh tật và qua đời
sửaLý Hạ được miêu tả là một người có ngoại hình rất ốm yếu, với thân hình mảnh khảnh, đôi lông mày liền nhau và để móng tay dài.[7] Lý trút hơi thở cuối cùng lúc đang giữ một chức quan nhỏ và gia cảnh nghèo khó vào năm 816 hoặc 817,[e] thọ 26 hoặc 27 tuổi.[6][f] Cuốn Lý Hạ tiểu truyện kể rằng vào canh giờ mà Lý qua đời, ông được một nhân vật mặc áo lụa đào ghé thăm; người này nói với vị thi sĩ rằng Thượng đế đã cho gọi ông lên thiên đàng để làm thơ.[13]
Các tên gọi
sửaTên tự của Lý Hạ là Trường Cát,[14] đôi khi ông còn được gọi với cái tên ghép từ họ và tên tự là Lý Trường Cát.[15] Người đời cũng mệnh danh ông là Quỷ Tài (
Thơ
sửaTrong lịch sử văn học, Lý Hạ thường được xem là một nhà thơ thuộc kỷ nguyên Trung Đường, kéo dài từ cuối thế kỉ 8 đến đầu thế kỉ 9.[21] Những nguồn ảnh hưởng lên lối sáng tác của Lý có thể kể đến danh sĩ tiền bối đương thời Mạnh Giao và Hàn Dũ.[22] Lối làm thơ của Lý Hạ cũng được xem là chịu ảnh hưởng từ các yếu tố shaman của Sở Từ và phong cách bình dị của Lý Bạch.[22]
Cho đến nay khoảng 240 bài thơ[h] của Lý Hạ còn sót lại.[23] Cuốn Tân Đường thư cho biết có rất ít bài thơ của Lý được lưu trữ bởi những sáng tác đó đều mang màu sắc độc lạ cũng như do Lý mất sớm.[24] Giai thoại trong cuốn Thái bình quảng ký (
Ngày nay có hai tập thơ của Lý Hạ còn sót lại, đó là Lý Hạ ca thi thiên (giản thể:
Những tác phẩm của Lý Hạ luôn độc nhất vô nhị với màu sắc kỳ dị và khác thường, do đó ông mới được gắn cho cái nghệ danh Thi Quỷ.[27] Hầu như không có bài thơ nào của Lý được viết theo lối cận thể (
Mộng Thiên | "Dịch nghĩa" | |
---|---|---|
|
|
|
Ngòi bút của Lý Hạ cũng mang đến những nét miêu tả kỳ lạ về thế giới ma quỷ trong các bài thơ "Thu lai" (
Tần vương ẩm tửu | "Dịch nghĩa" | |
---|---|---|
|
|
|
Phong cách làm thơ của Lý Hạ được mệnh danh là Trường Cát thể (giản thể: 长吉
Đón nhận
sửaMột số phê bình gia phương Tây và Nhật Bản đương đại như A. C. Graham, Naotarō Kudō và J. D. Frodsham đều nhất trí rằng thơ của Lý Hạ không có nhiều người đón đọc rộng rãi cho đến thời hiện đại, tuy nhiên quan điểm này không hoàn toàn chính xác.[24] Trong cuộc khảo sát năm 1994, học giả Ngô Khải Minh cho biết vào thời Trung Quốc tiền hiện đại, Lý Hạ là nhà thơ thường được bắt chước nhiều hơn là bị thờ ơ.[33]
Thời nhà Đường và Tống
sửaHai nhà thơ đương thời với Lý Hạ là Đỗ Mục và Lý Thương Ẩn đều tri ân vị danh sĩ trong những tác phẩm văn xuôi của họ; trong khi Đỗ viết lời tựa cho tập thơ của Lý thì Thương Ẩn viết hẳn một cuốn tiểu sử về Lý Hạ.[34] Riêng lời tựa do Đỗ Mục viết có vai trò như bằng chứng cho thấy thơ của Lý được soạn và chỉnh sửa trong vài thập kỷ sau khi ông qua đời;[24] chúng giống như bằng chứng về những văn bản lưu hành nội bộ trước thời điểm Đỗ Mục viết lời tựa vào năm 831.[35] Thi sĩ đời Đường Bì Nhật Hưu (
Thời nhà Nguyên và Minh
sửaNhiều thi sĩ triều Nguyên đã bắt chước lối sáng tác của Lý Hạ,[39] có thể kể đến những cái tên như Thành Đình Khuê (
Thời nhà Thanh
sửaThơ của Lý Hạ bỗng chốc trở nên phổ biến từ cuối triều Minh đến giữa triều Thanh.[33] Một lượng lớn tập thơ của Lý có kèm chú thích xuất hiện trong giai đoạn này, từ đó thơ của ông được nhiều người bắt chước.[33] Học giả Vương Kỳ (
Thời hiện đại
sửaBên cạnh Lý Bạch và Lý Thương Ẩn, Lý Hạ là một trong "Tam Lý" (
Theo nhà Hán học người Pháp François Jullien, thơ của Lý Hạ được tái thừa nhận vào hàng ngũ danh tác kinh điển của văn học Trung Quốc "vào cuối thể kỉ 19... [khi mà]... những quan niệm về bút pháp lãng mạn của phương Tây [cho phép] người Hoa tái thẩm định lại nhà thơ này, cho phép bút pháp tượng trưng trong thơ của ông được lên tiếng, giải phóng thế giới tưởng tượng của ông khỏi những cuộc truy tìm ẩn ý chẳng bao giờ kết thúc".[47] Trong chương viết về Thơ Đường trong cuốn The Columbia History of Chinese Literature, Paul W. Kroll gọi Lý là "nhà thơ Đường lập dị nhất, có lẽ là trong toàn bộ nền thi ca Hoa ngữ" và mệnh danh ông là "Mallarmé của Trung Quốc" bởi lối làm thơ và cách sử dụng hình ảnh vô cùng khó hiểu của thi sĩ này.[29]
Tại Việt Nam, rất ít người biết đến thơ của Lý Hạ, kể cả trong giới nghiên cứu văn học, nên chỉ có một lượng ít ỏi các tài liệu dịch thuật và nghiên cứu ông bằng tiếng Việt. Mặc dù vậy, thơ của ông tiếp cận giới nghiên cứu văn học Việt từ khá sớm, cụ thể là vào thập niên 60 của thế kỷ 20, khi các học giả Việt dịch bộ Lịch sử văn học Trung Quốc của Sở nghiên cứu văn học thuộc Viện Khoa học xã hội Trung Quốc.[48] Trong cuốn Lịch sử văn học Trung Quốc tập 2, dịch giả-giáo sư Nguyễn Khắc Phi nhận xét: "… Kỳ lạ, phóng túng, tươi đẹp buồn thương, cố tâm theo đuổi cái mới lạ khiến cho thơ ca của ông tuyệt nhiên khác thường".[48] Năm 1995, trong cuốn Diện mạo thơ Đường, tác giả Lê Đức Niệm nhận định: "Lý Hạ sáng tác theo khuynh hướng lãng mạn. Những tác phẩm của ông đều có ký thác tâm sự cá nhân, nhưng cũng có nhiều nét của cuộc sống hiện thực, dùng bút pháp tượng trưng để gửi gắm lý tưởng và nỗi u sầu".[49] Trong khi đó học giả Nguyễn Tôn Nhan trong cuốn Thơ siêu thực của Lý Hạ (2000) viết: "Thơ ông thích miêu tả cảnh giới siêu hiện thực với ảo giác thần kỳ quái đản... Nhiều bài thơ có sắc thái nồng diễm, lạnh lẽo, thê lương, chữ dùng lại tân kỳ, mới lạ".[49]
Chú thích
sửa- Ghi chú
- ^ Nguyên văn:
李 賀 ,字 長吉 ,宗室 鄭 王 之 後 。父 名 晉 肅,以是不 應 進士 ,韓 愈 為之 作 《諱 辨 》,賀 竟不就試。手 筆 敏捷 ,尤 長 於歌篇 。其文思 體勢 ,如崇巖 峭壁,萬 仞崛起 ,當時 文士 從 而效之 ,無能 仿佛者 。其樂府 詞 數 十 篇 ,至 於雲韶樂工 ,無 不 諷誦 。補 太 常 寺 協 律郎 ,卒 ,時 年 二 十 四 。
Lược dịch: Lý Hạ, từ Trường Cát, là dòng dõi tôn thất Trịnh Vương. Cha tên là Tấn Túc, nên không thể làm tiến sĩ. Hàn Dũ vì thế mà làm bài "Huý biện" nhưng Hạ vẫn không thể ra ứng thí. Thủ bút [của Hạ] nhanh nhẹn, đặc biệt là ở các bài trường thiên. Tư tưởng và phong cách văn chương của hắn như vách đá sừng sững, như vạn nhận quật khởi. [...] Có hàng chục bài thơ trong Nhạc Phủ, còn như nhạc công vu vân thiều, chúng đều mang tính châm biếm. [Hạ] sung nhậm chức Hiệp luật lang ở chùa Thái Thường, chết ở tuổi hai mươi tư. - ^ Nguyên văn:
李 賀 字 長吉 ,系 出 鄭 王 後 。七 歲 能 辭 章 ,韓 愈 、皇 甫 湜始聞未信 ,過 其家,使 賀 賦 詩 ,援筆輒就如素構,自 目 曰高軒 過 ,二 人 大 驚 ,自 是 有名 。為 人 纖瘦,通 眉 ,長 指 爪 ,能 疾 書 。每 旦 日出 ,騎 弱 馬 ,從 小 奚奴,背 古 錦 囊,遇 所得 ,書 投 囊中。未 始 先立 題 然 後 為 詩 ,如它人 牽合程 課 者 。及暮歸 ,足成 之 。非 大醉 、弔 喪 日 率 如此。過 亦 不 甚省。母 使 婢探囊中,見所 書 多 ,即 怒 曰:「是 兒 要 嘔出心 乃已耳 。」以父名 晉 肅,不 肯舉進士 ,愈 為 作 諱 辨 ,然 卒 亦 不 就舉。辭 尚 奇 詭,所得 皆 驚 邁,絕 去 翰墨 畦 逕,當時 無能 效 者 。樂 府 數 十 篇 ,雲 韶諸工 皆 合 之 絃管。為 協 律郎 ,卒 ,年 二 十 七 。與 游 者 權 璩、楊敬之 、王 恭 元 ,每 譔著,時 為所 取去 。賀 亦 早世 ,故 其詩歌 世 傳 者 鮮焉。
Lược dịch: Lý Hạ, từ Trường Cát, là dòng dõi Trịnh Vương. Lên bảy đã có thể làm văn chương, Hàn Dũ, Hoàng Phủ Thực nghe đồn, liền ghé qua nhà bảo Hạ làm thơ. Hạ tức thì cầm lấy cây bút, viết nên bài "Cao Hiên quá". Hai người xem xong thì kinh hãi, Hạ vì thế mà nổi danh. Hạ người mảnh khảnh, lông mày giao nhau, móng tay dài, thủ bút lanh lẹ. Hàng ngày vào lúc bình minh, Hạ cưỡi một con ngựa yếu, đem theo một nô bộc, lưng đeo túi gấm, nghĩ ra được ý hay thì viết rồi ném vào trong túi. Ban đêm khi trở về, lại đem những ý nghĩ được lúc ban ngày mà chỉnh lý thành văn. Mẹ của Hạ bảo người tỳ nữ mở túi ra thì thấy một đống thơ, liền tức giận mà nói: "Thị nhi yếu ẩu xuất tâm nãi dĩ nhĩ." Phụ thân của Hạ tên là Tấn Túc, nên không thể làm tiến sĩ. Hàn Dũ viết bài "Huý biện", nhưng mà Hạ vẫn không thể ứng thí. Lời văn lạ lùng, khiến mọi người ngỡ ngàng. Hạ mất năm 27 tuổi khi đang giữ chức Hiệp luật lang. [...] Hạ qua đời đương tuổi còn trẻ nên rất ít thơ của ông được truyền từ đời này sang đời khác. - ^ Ueki et al. (1999, tr. 110) ghi là "790?", Huntington (2001, đoạn thứ 46), Noguchi (1994) và Digital Daijisen ghi là 790, trong khi Arai (1959, tr. 5), Fukazawa (2013, tr. 1219), Gotō (2002, tr. 71), Kai và Higashi (2010, tr. 833), Britannica Kokusai Dai-Hyakkajiten, World Encyclopedia và Daijirin ghi là 791.
- ^ Noguchi (1994) và Britannica Kokusai Dai-Hyakkajiten ghi quê nhà ông ở Xương Cốc (
昌 谷 ). - ^ Ueki et al. (1999, tr. 110) ghi là "816?", Huntington (2001, đoạn thứ 46), Noguchi (1994) và Digital Daijisen ghi là 816, trong khi Arai (1959, tr. 5), Fukazawa (2013, tr. 1219), Gotō (2002, tr. 71), Kai và Higashi (2010, tr. 833), Britannica Kokusai Dai-Hyakkajiten, World Encyclopedia và Daijirin ghi là 817.
- ^ Ueki et al. (1999, tr. 111), Noguchi (1994) và World Encyclopedia ghi ông qua đời thọ 27 tuổi.
- ^ Huntington (2001, đoạn thứ 46) ghi lý do dịch biệt hiệu thành "quỷ tài" bởi "những bài thơ của ông viết về các thế giới rời rạc và kỳ quái".
- ^ Fukazawa (2013, tr. 1220) ghi là 244 bài thơ.
- ^
人 言 太白 仙 才 、長吉 鬼才 、不 然 。太白 天仙 之 詞 、長吉 鬼 仙 之 詞 耳 。 - ^
中 唐 を代表 する詩人 (chūtō o daihyō suru shijin).
- Tham khảo
- ^ a b c d e f Fukazawa 2013, tr. 1220.
- ^ Morise 1975, tr. 480, ghi chú 1; Fukazawa 2013, tr. 1220; Endō 2005, tr. 1.
- ^ Morise 1975, tr. 480, ghi chú 1; Fukazawa 2013, tr. 1220; Noguchi 2001 .
- ^ a b Morise 1975, tr. 480, ghi chú 1.
- ^ Wada 2001, tr. 52-53.
- ^ a b c Frodsham 1983.
- ^ a b c d e f Fukazawa 2013, tr. 1219.
- ^ a b c Morise 1975, tr. 480, ghi chú 2.
- ^ Ueki et al. 1999, tr. 110; World Encyclopedia 1998; Mypaedia 1996; Digital Daijisen 1998.
- ^ Ueki et al. 1999, tr. 110–111; Fukazawa 2013, tr. 1219.
- ^ Ueki et al. 1999, tr. 110–111.
- ^ Ueki et al. 1999, tr. 111.
- ^ Fukazawa 2013, tr. 1219; Noguchi 1994; Hinton 2014, tr. 319.
- ^ Ueki et al. 1999, tr. 101; Fukazawa 2013, tr. 1219; Noguchi 1994; Kai and Higashi 2010, tr. 833; World Encyclopedia 1998; Britannica Kokusai Dai-Hyakkajiten 2014; [[#CITEREF|]] ; Daijirin 2006; Digital Daijisen 1998.
- ^ World Encyclopedia 1998; Daijirin 2006.
- ^ Ueki et al. 1999, tr. 111; Kai and Higashi 2010, tr. 833.
- ^ Ueki et al. 1999, tr. 111; Arai 1959, tr. 5.
- ^ Tung 2014, tr. 143.
- ^ “
李 贺故里 文化 旅 游 开发项目 [Lý hạ cố lý văn hoá lữ du khai phát hạng mục]”. 12 tháng 3 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 2 năm 2017. - ^ Sugitani 2014, tr. 46.
- ^ Ueki et al. 1999, tr. 101; Fukazawa 2013, tr. 1219; Noguchi 1994; World Encyclopedia 1998; Britannica Kokusai Dai-Hyakkajiten 2014; Mypaedia 1996; Daijirin 2006; Digital Daijisen 1998; [[#CITEREF|]] .
- ^ a b Hinton 2014, tr. 318.
- ^ Kai and Higashi 2010, tr. 833.
- ^ a b c d e Wu 1998, tr. 228.
- ^ Ueki et al. 1999, tr. 111; Hinton 2014, tr. 319.
- ^ Hinton 2014, tr. 319.
- ^ Fukazawa 2013, tr. 1219–1220.
- ^ “Chinese Text Project entry '
夢 天 '”. Chinese Text Project. Truy cập ngày 21 tháng 2 năm 2019. - ^ a b Kroll 2001, đoạn thứ 88.
- ^ a b c Arai 1959, tr. 178.
- ^ “Chinese Text Project entry
秦 王 飲酒 ”. Chinese Text Project. Truy cập ngày 25 tháng 2 năm 2019. - ^ Fukazawa 2013, tr. 1220; Zeitlin 2007, tr. 75.
- ^ a b c d e f g Zeitlin 2007, tr. 75.
- ^ Kroll 2001, đoạn thứ 88; Hinton 2014, tr. 318.
- ^ Wada 2001, tr. 51.
- ^ Arai 1959, tr. 6.
- ^ Sargent 2001, đoạn thứ 21.
- ^ Gotō 2002, tr. 71–72.
- ^ a b Lynn 2001, đoạn thứ 9.
- ^ Lynn 2001, đoạn thứ 10; Wixted 2001, đoạn thứ 9.
- ^ Lynn 2001, đoạn thứ 11.
- ^ Wixted 2001, đoạn thứ 22.
- ^ Graham 1971, tr. 568.
- ^ Bryant 2001, đoạn thứ 11.
- ^ Xia 2001, tr. 78.
- ^ “Allusions to Classical Chinese Poetry in Pink Floyd”. cjvlang.com. Truy cập 27 tháng 5 năm 2020.
- ^ Jullien 2004, tr. 73.
- ^ a b Xuân Châu 2009, tr. 35 .
- ^ a b Xuân Châu 2009, tr. 36 .
Tài liệu trích dẫn
sửa- Arai, Ken (1959). Chūgoku Shijin Senshū 14: Ri Ga (bằng tiếng Nhật). 1. Tokyo: Iwanami Shoten.
- Arai, Ken; Takahashi, Kazumi (1984). Shinshū Chūgoku Shijin Senshū 5: Ri Ga, Ri Shōin (bằng tiếng Nhật). 1. Tokyo: Iwanami Shoten.
- “Lý Hạ (Ri Ga trong tiếng Nhật)”. Britannica Kokusai Dai-Hyakkajiten (bằng tiếng Nhật). Encyclopædia Britannica, Inc. 2014. Truy cập ngày 28 tháng 1 năm 2017.
- Bryant, Daniel (2001). “Chapter 22: Poetry of the Eighteenth to Early Twentieth Centuries”. Trong Mair, Victor H. (biên tập). The Columbia History of Chinese Literature. New York: Columbia University Press. ISBN 0-231-10984-9.
- “Lý Hạ (Ri Ga trong tiếng Nhật)”. Daijirin (bằng tiếng Nhật). Sanseidō. 2006. Truy cập ngày 30 tháng 1 năm 2017.
- “Lý Hạ (Ri Ga trong tiếng Nhật)”. Daijisen (bằng tiếng Nhật). Shogakukan. 1998. Truy cập ngày 30 tháng 1 năm 2017.
- Endō, Seiki (15 tháng 4 năm 2005). “Gafu Bungaku Shijō ni okeru Ri Ga no Ichi: "Fuzan Takashi" ni motozuku kōsatsu” (PDF). Tōkyō Daigaku Chūgokugo Chūgoku Bungaku Kenkyūshitsu Kiyō (bằng tiếng Nhật). University of Tokyo. 8 (1): 1–24. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 2 tháng 2 năm 2017. Truy cập ngày 30 tháng 1 năm 2017.
- Frodsham, J. D. (1983). The Poems of Li He (790-816) (bằng tiếng Anh). 1. San Francisco: North Point Press. ISBN 0-86547-084-7.
- Fukazawa, Kazuyuki (2013). “Lý Hạ (Ri Ga trong tiếng Nhật)”. Trong Ozaki, Yūichirō; Chikusa, Masaaki; Togawa, Yoshio (biên tập). Chūgoku Bunkashi Daijiten
中国 文化 史 大 事典 (bằng tiếng Nhật). 1. Tokyo: Taishūkan Shoten. tr. 1219–1220. ISBN 978-4469012842. - Gotō, Yuri (2002). Ri Ga "Kisen" nitsuite no ichikōsatsu: Ri Haku "Tensen" to no hikaku kara (PDF) (thesis). Osaka University. tr. 71–85. Truy cập ngày 28 tháng 1 năm 2017. Lưu trữ 2017-02-02 tại Wayback Machine
- Graham, A. C. (1971). “A New Translation of a Chinese Poet: Li Ho
李 賀 ”. Bulletin of the School of Oriental and African Studies. University of London. 34 (3): 560–570. doi:10.1017/s0041977x0012854x. JSTOR 613902. - Graham, A. C. (1977). Penguin Classics: Poems of the Late Tang (bằng tiếng Anh). 1. Penguin Group.
- Hinton, David (2014). Classical Chinese Poetry: An Anthology (bằng tiếng Anh). 1. New York: Farrar, Straus and Giroux. ISBN 978-1-46687-322-3.
- Huntington, Rania (2001). “Chapter 6: The Supernatural”. Trong Mair, Victor H. (biên tập). The Columbia History of Chinese Literature. New York: Columbia University Press. ISBN 0-231-10984-9.
- Jullien, François (2004). Detour and Access: Strategies of Meaning in China and Greece (bằng tiếng Anh). 1. ISBN 1-890951-11-0.
- Kai, Katsuji; Higashi, Hidetoshi (2010). “"Bantō Godai no Bungaku Hihyō, Shoron" Yakuchū (jō)”. Fukuoka Daigaku Jinbun Ronsō (bằng tiếng Nhật). Fukuoka University. 42 (3): 821–842. Truy cập ngày 30 tháng 1 năm 2017.
- Kroll, Paul W. (2001). “Chapter 14: Poetry of the T'ang Dynasty”. Trong Mair, Victor H. (biên tập). The Columbia History of Chinese Literature. New York: Columbia University Press. ISBN 0-231-10984-9.
- Lynn, Richard John (2001). “Chapter 18: Mongol-Yüan Classical Verse (Shih)”. Trong Mair, Victor H. (biên tập). The Columbia History of Chinese Literature. New York: Columbia University Press. ISBN 0-231-10984-9.
- Morise, Toshizō (1975). “Ri Ga (791–817): Shin Tō Sho kan 203”. Trong Ogawa, Tamaki (biên tập). Tōdai no Shijin: Sono Denki. Tokyo: Taishūkan Shoten. tr. 477–484.
- “Lý Hạ (Ri Ga trong tiếng Nhật)”. Mypaedia (bằng tiếng Nhật). Hitachi. 1996.
- Noguchi, Kazuo (1994). “Lý Hạ (Ri Ga trong tiếng Nhật)”. Encyclopedia Nipponica (bằng tiếng Nhật). Shogakukan. Truy cập ngày 29 tháng 1 năm 2017.
- Sargent, Stuart (2001). “Chapter 15: Tz'u”. Trong Mair, Victor H. (biên tập). The Columbia History of Chinese Literature. New York: Columbia University Press. ISBN 0-231-10984-9.
- Sugitani, Shizuka (10 tháng 3 năm 2014). Chūgoku Tōdai Bungaku Kenkyū: Kō Shō, Kō Kōken, Ryū Shin'un o chūshin ni (PDF) (Ph.D.). Kumamoto: Kumamoto University. Lưu trữ 2017-02-15 tại Wayback Machine
- Tung, Hung-ming (30 tháng 9 năm 2014). Sakuhō-fukushi Jo Hokō: "Hōshi Ryūkyū-shi" no bunseki o chūshin ni (PDF) (Ph.D.). Nishihara: University of the Ryukyus. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 4 tháng 2 năm 2017. Lưu trữ 2017-02-04 tại Wayback Machine
- Ueki, Hisayuki; Uno, Naoto; Matsubara, Akira (1999). “Shijin to Shi no Shōgai (Ri Ga)”. Trong Matsuura, Tomohisa (biên tập). Kanshi no Jiten
漢詩 の事典 (bằng tiếng Nhật). 1. Tokyo: Taishūkan Shoten. tr. 110–113. OCLC 41025662. - Wada, Hidenobu (28 tháng 4 năm 2001). “Ri Ga to iu shijin-zō: Ri Shōin "Ri Ga Shō Den" to Ri Ga no monogatari”. Ochanomizu Joshi Daigaku Daigaku Chūgoku Bungaku Kaihō (bằng tiếng Nhật). Ochanomizu University. 20 (1): 50–68. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 9 năm 2017. Truy cập ngày 17 tháng 9 năm 2017.
- Wixted, John Timothy (2001). “Chapter 19: Poetry of the Fourteenth Century”. Trong Mair, Victor H. (biên tập). The Columbia History of Chinese Literature. New York: Columbia University Press. ISBN 0-231-10984-9.
- “Lý Hạ (Ri Ga trong tiếng Nhật)”. World Encyclopedia (bằng tiếng Nhật). Heibonsha. 1998. Truy cập ngày 29 tháng 1 năm 2017.
- Wu, Fusheng (1998). “Chapter 3 (note 8)”. The Poetics of Decadence: Chinese Poetry of the Southern Dynasties and Late Tang Periods (bằng tiếng Anh). 1. Albany: SUNY Press. tr. 228. ISBN 9780791437513.
- Xia, Gang (tháng 12 năm 2001). “Nihon Reihō Nyūmon no chūkaku to chūkū: Nitchū no reihō, kannen no hikaku no ichidanmen (3)” (PDF). Ritsumeikan Kokusai Kenkyū (bằng tiếng Nhật). Ritsumeikan University. 14 (3): 71–87. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 2 tháng 2 năm 2017. Truy cập ngày 29 tháng 1 năm 2017.
- Zeitlin, Judith T. (2007). “The Ghost's Voice”. The Phantom Heroine: Ghosts and Gender in Seventheenth-century Chinese Literature (bằng tiếng Anh). 1. Honolulu: University of Hawaii Press. ISBN 9780824830915.
- Phạm Thị Xuân Châu (2009). Ảnh hưởng thơ Lý Hạ ở Trung Quốc và Việt Nam. Tạp chí Hán Nôm (Luận văn). 6. Hà Nội: Đại học Sư phạm Hà Nội. tr. 30-36. Bản gốc lưu trữ 27 tháng 6 năm 2020.
- Dư Quán Anh, Tiền Chung Thư và Phạm Ninh. Lịch sử văn học Trung Quốc. 2. Hà Nội: Nhà xuất bản Giáo dục.
- Lê Đức Niệm. Diện mạo thơ Đường. Hà Nội: Nhà xuất bản văn hóa - thông tin và Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội.
- Nguyễn Tôn Nhạn. Thơ siêu thực Lý Hạ. Tạp chí Văn Chương (Luận văn). Nhà xuất bản Thanh niên.
Đọc thêm
sửa- Mc Craw, David (1996). “Hanging by a Thread: Li He's Deviant Closures”. Chinese Literature: Essays, Articles, Reviews (CLEAR). University of Wisconsin. 18: 23–44. doi:10.2307/495624. JSTOR 495624.
- Noguchi, Kazuo (29 tháng 3 năm 1980). “Ri Ga to Shin Ashi” (PDF). Hokkaidō Daigaku Bungakubu Kiyō (bằng tiếng Nhật). Hokkaido University. 28 (2): 107–169.
- Tu, Kuo-ch'ing (1979). Li Ho. Boston: Twayne.
Liên kết ngoài
sửaWikisource có các tác phẩm gốc nói đến hoặc của: Lý Hạ |
- Các tập sách Toàn Đường thi tại Dự án thư pháp Hoa Ngữ có sưu tầm các bài thơ của Lý Hạ:
- Lược sở
- Các tác phẩm của Lý Hạ tại Dự án Gutenberg
- Các tác phẩm của hoặc nói về Lý Hạ tại Internet Archive
- “"Quỷ thi" Lý Hạ”. An ninh Thủ Đô. 16 tháng 2 năm 2011. Bản gốc lưu trữ 27 tháng 2 năm 2020.
- Nguyễn Thị Thúy Hạnh (8 tháng 11 năm 2018). “Lý Hạ – Hàn Mặc Tử: Những tương đồng về thi pháp”. Hội văn học nghệ thuật tỉnh Thái Nguyên. Bản gốc lưu trữ 27 tháng 2 năm 2020.