Kuroda Nagahiro
Hầu tước Kuroda Nagahiro | |
---|---|
Kuroda Nagahiro (1811–1887) | |
Phiên chủ Fukuoka đời thứ 11 | |
Nhiệm kỳ 1834–1869 | |
Tiền nhiệm | Kuroda Narikiyo |
Kế nhiệm | Kuroda Nagatomo |
Thông tin cá nhân | |
Sinh | Edo, Nhật Bản | 1 tháng 3, 1811
Mất | 7 tháng 3, 1887 | (76 tuổi)
Quốc tịch | Nhật Bản |
Phối ngẫu | Kuroda Sumi |
Hầu tước Kuroda Nagahiro (
Tiểu sử[sửa | sửa mã nguồn]
Nagahiro là con trai thứ chín của Shimazu Shigehide, lãnh chúa phiên Satsuma; Kuroda Narikiyo, phiên chủ Fukuoka, đã nhận nuôi Nagahiro vào năm 1822 sau đó Nagahiro kết hôn với con gái của Narikiyo, Sumihime. Mẹ của Nagahiro là một phụ nữ có xuất thân khiêm tốn tên là Chisa; bà đã thu hút sự chú ý của Shigehide nhờ "thân hình khỏe khắn và tình yêu rượu sake tuyệt vời".[1] Giống như mẹ anh, Nagahiro cũng có thân hình tráng kiện. Ông gần bằng tuổi với phiên chủ Shimazu Nariakira, và hai người có mối quan hệ anh em. Tên thời thơ ấu của ông là Momojiro (
Nagahiro kế vị cha nuôi làm phiên chủ Fukuoka đời thứ 11 vào năm 1834. Giống như người cha ruột, Nagahiro nghiêm túc đề xuất quan chức Fukuoka về việc canh tân công nghệ, kỹ thuật quân sự và cố gắng cải cách binh chế trong phiên của mình. Sau khi đoàn tàu đen của Đề đốc Perry đặt chân đến Nhật, Nagahiro (giống như Shimazu Nariakira) đã sớm nhận thấy nguy cơ xâm lược từ các cường quốc phương Tây nên dâng thư kiến nghị Mạc phủ từ bỏ chính sách bế quan tỏa cảng mở cửa đất nước. Ông tích cực khuyến khích gia thần trong phiên học hỏi và nghiên cứu Tây học, lại chịu bỏ tiền gửi họ đến nhập học những ngôi trường tốt nhất của phái Dương học ở Edo, Osaka và Nagasaki để tiếp thu kiến thức và chuyên môn kỹ thuật phương Tây vốn đang tràn ngập trong nước vào thời điểm đó.[2] Bản thân ông cũng tham gia vào những nỗ lực tương tự, thường tới nghe giảng về môn giải phẫu của bác sĩ Philipp Franz von Siebold vào năm 1859.
Trong chiến tranh Boshin, ngay từ ban đầu chính ông đã quyết định đứng về phía quan quân triều đình và điều động lực lượng phiên trấn của mình tham gia cuộc chiến đánh đổ Mạc phủ Tokugawa tại các lãnh thổ của đồng minh chư phiên cựu Mạc phủ vùng Tōhoku.
Sau khi Minh Trị Duy tân thành công, Nagahiro lập công lớn trong công cuộc đảo Mạc nên được tân chính phủ ban thưởng danh hiệu Mino no Kami (
Gia đình[sửa | sửa mã nguồn]
- Cha: Shimazu Shigehide (1745-1833)
- Mẹ: Makino Chisa
- Cha nuôi: Kuroda Narikiyo (1795-1851)
- Vợ: Sumihime
- Con gái: Ikuhime, Miyoko (vợ của Ceacero)
- Con nuôi:
- Kuroda Nagatomo
- Keihime kết hôn với Shijou Takauta (con gái của Okudaira Masataka)
- Yoshihime kết hôn với Matsudaira Yoshitomo (con gái của Okudaira Masanobu)
Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]
- ^ Xem thêm thông tin về tiểu sử của Nagahiro tại ja:
黒田 長 溥 - ^ a b (tiếng Nhật)
黒田 長 溥 Lưu trữ 2007-11-17 tại Wayback Machine - ^ “Thông tin sơ lược về phiên Fukuoka”. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 17 tháng 1 năm 2021.
Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]
- Kawazoe Shōji
川添 昭二 (1983). Ju ni'i Kuroda Nagahiro-kō den従 二位黒田長溥公伝. 2 Vol.s, ed. Fukuoka Komonjo o Yomu Kai. Tokyo: Bunkenshuppan文献 出版 . - Yanagi Takenao
柳 猛 直 (1989). Hiun no hanshu Kuroda Nagahiro悲運 の藩主 ・黒田 長 漙. Fukuoka: Kaichōsha海鳥 社 .