(Translated by https://www.hiragana.jp/)
Lã Hưng – Wikipedia tiếng Việt Bước tới nội dung

Lã Hưng

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Lã Hưng
Thông tin cá nhân
Mất264
Giới tínhnam
Nghề nghiệpquan viên, kẻ phản loạn
Quốc tịchĐông Ngô

Lã Hưng (chữ Hán: りょきょう, ?-264) hay Lữ Hưng, là một nhân vật nhà Đông Ngô thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Lã Hưng vốn là một viên quan ở quận Giao Chỉ, sau đó ra tay giết chết Thái thú Tôn Tư (chữ Hán: まご), mang Giao Chỉ về hàng nhà Tào Ngụy.

Cuộc đời[sửa | sửa mã nguồn]

Từ trước năm 263, Thái thú Tôn Tư (まご諝) nhà Đông Ngô cai trị Giao Chỉ[1] tàn ác, dân chúng quận Giao Chỉ và Nhật Nam bất mãn. Tôn Tư còn bắt hàng nghìn thợ thủ công Giao Chỉ mang sang kinh đô Kiến Nghiệp phục dịch. Năm 263, vua Đông Ngô là Tôn Hưu lại sai Đặng Tuân (chữ Hán: 鄧荀) sang Giao Chỉ tìm bắt chim cônglợn rừng. Nhân dân Giao Chỉ khi thấy Tuân sang, sợ rằng nhà Ngô muốn bắt thêm người sang phục dịch, càng thêm bất mãn.[2]

Năm 263, Lã Hưng, một viên quan (quận lại) ở quận Giao Chỉ, kích động nhân dân cùng nhau nổi dậy giết chết Tư và Tuân. Lã Hưng chiếm cứ quận Giao Chỉ, các quận Nhật Nam và Cửu Chân cũng theo Lã Hưng. Lã Hưng sau đó sai đô úy là Đường Phổ (chữ Hán: から) sang Nam Trung xin hàng phục đô đốc Hoắc Dặc nhà Tào Ngụy. Hoắc Dặc gửi thư về Lạc Dương báo cho triều đình.[3]

Lã Hưng mang quận Giao Chỉ về hàng Tào Ngụy dù lúc đó bị ngăn cách về địa lý. Theo John Crawfurd, sự kiện này đánh dấu thời điểm Việt Nam "vô hình" độc lập khỏi Trung Quốc.[4][5]

Đại Việt sử ký toàn thư chép:[6]

Quý Mùi, [263], (Hán Viêm Hưng năm thứ 1, Ngô Vĩnh An năm thứ 16)[7]. Mùa xuân, tháng 3, lúc trước nhà Ngô lấy Tôn Tư làm Thái thú Giao Châu, Tư là người tham bạo, làm hại dân chúng. Đến đây vua Ngô sai Đặng Tuân đến quận. Tuân lại tự tiện bắt dân nộp 30 con công đưa về Kiến Nghiệp. Dân sợ phải đi phục dịch đường xa, mới mưu làm loạn. Mùa hạ, tháng 4, quận lại là Lữ Hưng giết Tư và Tuân, xin nhà Tấn đặt Thái thú và cho binh. (Xét sách Cương mục chép là xin nhà Ngụy đặt quan, nhưng đến năm sau. Ngụy nhường ngôi cho Tấn, thì Ngụy cũng tức là Tấn). Các quận Cửu Chân, Nhật Nam đều hưởng ứng. Năm ấy nhà Hán mất.

Bản đồ Tam quốc năm 264. Giao Châu từ năm 263 do Lữ Hưng chiếm giữ.

Cuối năm 263, Tào Ngụy tiến hành chiến dịch tiêu diệt Thục Hán thành công. Năm 264, quyền thần nhà Ngụy là Tư Mã Chiêu nhân danh Ngụy Nguyên Đế Tào Hoán phong cho Lã Hưng làm An Nam tướng quân, Giao Châu thái thú, và cho Hoắc Dặc (tướng cũ Thục Hán) làm Thứ sử Giao châu (nhưng vẫn ở Nam Trung, không trực tiếp sang Giao Châu).[8]

Đến năm 264, trước hành động của Lữ Hưng kèm theo nguy cơ mất cả Giao Châu, Tôn Hưu vội chia tách Giao Châu thành hai châu là Quảng Châu (trị sở tại Phiên Ngung) và Giao Châu (trị sở tại Long Biên). Giao Châu mới chỉ gồm 4 quận còn lại ở phía nam là Hợp Phố, Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam. Cuối năm 264, chiếu chỉ của Tào Ngụy chưa đến nơi thì Lã Hưng đã bị thủ hạ là công tào Lý Thống (chữ Hán: みつる) giết chết.[9]

Đại Việt sử ký toàn thư chép:[6]

Giáp Thân, [264], (Ngụy Tào Hoán Hàm Hy năm thứ 1, Ngô Tôn Hạo Nguyên Hưng năm thứ 1). Mùa thu, tháng 7, nhà Ngô tách Giao Châu, đặt Quảng Châu. Bấy giờ Ngô đã phụ vào Tấn. Nhà Tấn cho Lữ Hưng làm An Nam tướng quân đô đốc Giao Châu chư quân sự, cho Nam Trung giáp quân là Hoắc Dặc xa lĩnh[10] Thứ sử Giao Châu, cho được tùy nghi tuyển dụng trưởng lại. Dặc dâng biểu tiến cử Thoán Cốc (có sách chép là Phần Cốc) làm Thái thú, đem thuộc lại là bọn Đổng Nguyên, Vương Tố đem quân sang giúp Hưng, nhưng chưa đến nơi thì Hưng đã bị công tào là Lý Thống giết. Cốc cũng chết (có sách chép Cốc ốm chết).

Năm 265, nhà Tấn cướp ngôi nhà Ngụy, cử Dương Tắc (chữ Hán: 楊稷) làm thái thú Giao Chỉ, Đổng Nguyên làm thái thú Cửu Chân. Từ đây, Giao Châu thuộc quyền nước Tấn. Nước Đông Ngô cử Đào Hoàng (chữ Hán: とう) tiến đánh Tấn để tranh giành Giao Châu và Quảng Châu, đến năm 271 thì Ngô giành lại được. Phía Ngô gọi sự kiện này là loạn Giao Chỉ (chữ Hán: 交阯みだれ).

Bản[liên kết hỏng] đồ Giao Châu (màu xanh) và Quảng Châu (màu vàng) năm 264, thời Đông Ngô

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Sử Trung Quốc ghi là 交阯太守たいしゅ Gia Chỉ Thái Thú chứ không ghi Giao Châu.
  2. ^ Tam Quốc chí, quyển 28, Ngô thư, Tôn Hạo truyện《三國志さんごくしまきよんじゅうはちくれしょ·まごきゅうでん
  3. ^ Tấn thư - Đào Hoàng truyện すすむしょすえ璜傳
  4. ^ John Crawfurd (1856), A descriptive dictionary of the Indian islands & adjacent countries. Mục từ Cochin-China, trang 112.
  5. ^ John Crawfurd (1828), Journal of an embassy from the Governor-General of India to the courts of Siam and Cochin-China: exhibiting a view of the actual state of those kingdoms. SOUTHEAST ASIA VISIONS, Cornell University Library’s John M. Echols Collection. Volume 2. Chapter VII. From page 302-315.
  6. ^ a b Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Ngoại Kỷ Toàn Thư 4: Thuộc Tấn - Tống - Tề - Lương. Lý Nam Đế (227 - 602)
  7. ^ Năm Quý Mùi (263), là niên hiệu Vĩnh An năm thứ 6 đời Ngô Tôn Hưu (Cảnh Đế), chứ không phải Vĩnh An năm thứ 16 như nguyên bản đã lầm.
  8. ^ Nguyên văn chiếu chỉ: :"吴贼せいけい暴虐ぼうぎゃく,赋敛无极。孙休使つかい邓句,敕交阯太守たいしゅ锁送其民,发以为兵。吴将吕兴いん民心みんしん愤怒,またうけたまわおう平定へいていともえしょくそく纠合ごう杰,诛除とう,驱逐太守たいしゅ长吏,抚和吏民,以待こくいのちきゅうしん日南にちなんぐん闻兴ぎゃくそく顺,また齐心响应,あずか兴协どう。兴移书日南にちなんしゅうぐん,开示だい计,へい临合うらつげ以祸ぶくじょうから谱等诣进じょう县,よし南中みなみなかとく护军霍弋上表じょうひょう陈。また交阯はた吏各上表じょうひょうげん‘兴创づくりごと业,大小だいしょううけたまわいのちぐん有山ありやま寇,にゅう连诸ぐん,惧其计异,かくゆう携贰。权时むべ以兴为督交阯诸军ごとうえ大将たいしょう军、じょうやす县侯,乞赐褒奖,以慰边荒’。乃心款诚,かたち于辞むねむかし仪父あさ鲁,春秋しゅんじゅうしょ;窦融归汉,まち以殊れいこん国威こくい远震,抚怀ろくごうぽうつつみ举殊裔,こんいちよんひょう。兴首こう王化おうか,举众稽服,万里ばんり驰义,请吏帅职,むべ宠遇,たかし其爵すんで使兴等怀忠かんえつ,远人闻之,必皆竞劝。其以兴为使节、とく交州诸军ごと南中なんちゅう大将たいしょう军,ふうじょうやす县侯とく便宜べんぎ从事,先行せんこうきさきじょう。"
  9. ^ Hoa dương vật chí《華陽かようこくこころざし
  10. ^ Nguyên văn: "Dao lĩnh", nghĩa là lĩnh chức cai trị ở một nơi xa mà không cần phải đích thân đến đóng trị sở nơi ấy.

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]