Lã Hưng
Lã Hưng | |
---|---|
Thông tin cá nhân | |
Mất | 264 |
Giới tính | nam |
Nghề nghiệp | quan viên, kẻ phản loạn |
Quốc tịch | Đông Ngô |
Lã Hưng (chữ Hán:
Cuộc đời[sửa | sửa mã nguồn]
Từ trước năm 263, Thái thú Tôn Tư (
Năm 263, Lã Hưng, một viên quan (quận lại) ở quận Giao Chỉ, kích động nhân dân cùng nhau nổi dậy giết chết Tư và Tuân. Lã Hưng chiếm cứ quận Giao Chỉ, các quận Nhật Nam và Cửu Chân cũng theo Lã Hưng. Lã Hưng sau đó sai đô úy là Đường Phổ (chữ Hán:
Lã Hưng mang quận Giao Chỉ về hàng Tào Ngụy dù lúc đó bị ngăn cách về địa lý. Theo John Crawfurd, sự kiện này đánh dấu thời điểm Việt Nam "vô hình" độc lập khỏi Trung Quốc.[4][5]
Đại Việt sử ký toàn thư chép:[6]
Quý Mùi, [263], (Hán Viêm Hưng năm thứ 1, Ngô Vĩnh An năm thứ 16)[7]. Mùa xuân, tháng 3, lúc trước nhà Ngô lấy Tôn Tư làm Thái thú Giao Châu, Tư là người tham bạo, làm hại dân chúng. Đến đây vua Ngô sai Đặng Tuân đến quận. Tuân lại tự tiện bắt dân nộp 30 con công đưa về Kiến Nghiệp. Dân sợ phải đi phục dịch đường xa, mới mưu làm loạn. Mùa hạ, tháng 4, quận lại là Lữ Hưng giết Tư và Tuân, xin nhà Tấn đặt Thái thú và cho binh. (Xét sách Cương mục chép là xin nhà Ngụy đặt quan, nhưng đến năm sau. Ngụy nhường ngôi cho Tấn, thì Ngụy cũng tức là Tấn). Các quận Cửu Chân, Nhật Nam đều hưởng ứng. Năm ấy nhà Hán mất.
Cuối năm 263, Tào Ngụy tiến hành chiến dịch tiêu diệt Thục Hán thành công. Năm 264, quyền thần nhà Ngụy là Tư Mã Chiêu nhân danh Ngụy Nguyên Đế Tào Hoán phong cho Lã Hưng làm An Nam tướng quân, Giao Châu thái thú, và cho Hoắc Dặc (tướng cũ Thục Hán) làm Thứ sử Giao châu (nhưng vẫn ở Nam Trung, không trực tiếp sang Giao Châu).[8]
Đến năm 264, trước hành động của Lữ Hưng kèm theo nguy cơ mất cả Giao Châu, Tôn Hưu vội chia tách Giao Châu thành hai châu là Quảng Châu (trị sở tại Phiên Ngung) và Giao Châu (trị sở tại Long Biên). Giao Châu mới chỉ gồm 4 quận còn lại ở phía nam là Hợp Phố, Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam. Cuối năm 264, chiếu chỉ của Tào Ngụy chưa đến nơi thì Lã Hưng đã bị thủ hạ là công tào Lý Thống (chữ Hán:
Đại Việt sử ký toàn thư chép:[6]
Giáp Thân, [264], (Ngụy Tào Hoán Hàm Hy năm thứ 1, Ngô Tôn Hạo Nguyên Hưng năm thứ 1). Mùa thu, tháng 7, nhà Ngô tách Giao Châu, đặt Quảng Châu. Bấy giờ Ngô đã phụ vào Tấn. Nhà Tấn cho Lữ Hưng làm An Nam tướng quân đô đốc Giao Châu chư quân sự, cho Nam Trung giáp quân là Hoắc Dặc xa lĩnh[10] Thứ sử Giao Châu, cho được tùy nghi tuyển dụng trưởng lại. Dặc dâng biểu tiến cử Thoán Cốc (có sách chép là Phần Cốc) làm Thái thú, đem thuộc lại là bọn Đổng Nguyên, Vương Tố đem quân sang giúp Hưng, nhưng chưa đến nơi thì Hưng đã bị công tào là Lý Thống giết. Cốc cũng chết (có sách chép Cốc ốm chết).
Năm 265, nhà Tấn cướp ngôi nhà Ngụy, cử Dương Tắc (chữ Hán: 楊稷) làm thái thú Giao Chỉ, Đổng Nguyên làm thái thú Cửu Chân. Từ đây, Giao Châu thuộc quyền nước Tấn. Nước Đông Ngô cử Đào Hoàng (chữ Hán:
Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]
- ^ Sử Trung Quốc ghi là 交阯
太守 Gia Chỉ Thái Thú chứ không ghi Giao Châu. - ^ Tam Quốc chí, quyển 28, Ngô thư, Tôn Hạo truyện《
三國志 》卷 四 十 八 「吳 書 ·孫 休 傳 」 - ^ Tấn thư - Đào Hoàng truyện
晉 書 •陶 璜傳 - ^ John Crawfurd (1856), A descriptive dictionary of the Indian islands & adjacent countries. Mục từ Cochin-China, trang 112.
- ^ John Crawfurd (1828), Journal of an embassy from the Governor-General of India to the courts of Siam and Cochin-China: exhibiting a view of the actual state of those kingdoms. SOUTHEAST ASIA VISIONS, Cornell University Library’s John M. Echols Collection. Volume 2. Chapter VII. From page 302-315.
- ^ a b Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Ngoại Kỷ Toàn Thư 4: Thuộc Tấn - Tống - Tề - Lương. Lý Nam Đế (227 - 602)
- ^ Năm Quý Mùi (263), là niên hiệu Vĩnh An năm thứ 6 đời Ngô Tôn Hưu (Cảnh Đế), chứ không phải Vĩnh An năm thứ 16 như nguyên bản đã lầm.
- ^ Nguyên văn chiếu chỉ: :"吴贼
政 刑 暴虐 ,赋敛无极。孙休遣 使 邓句,敕交阯太守 锁送其民,发以为兵。吴将吕兴因 民心 愤怒,又 承 王 师平定 巴 蜀 ,即 纠合豪 杰,诛除句 等 ,驱逐太守 长吏,抚和吏民,以待国 命 。九 真 、日南 郡 闻兴去 逆 即 顺,亦 齐心响应,与 兴协同 。兴移书日南 州 郡 ,开示大 计,兵 临合浦 ,告 以祸福 ;遣 都 尉 唐 谱等诣进乘 县,因 南中 都 督 护军霍弋上表 自 陈。又 交阯将 吏各上表 ,言 ‘兴创造 事 业,大小 承 命 。郡 有山 寇,入 连诸郡 ,惧其计异,各 有 携贰。权时之 宜 ,以兴为督交阯诸军事 、上 大将 军、定 安 县侯,乞赐褒奖,以慰边荒’。乃心款诚,形 于辞旨 。昔 仪父朝 鲁,春秋 所 美 ;窦融归汉,待 以殊礼 。今 国威 远震,抚怀六 合 ,方 包 举殊裔,混 一 四 表 。兴首向 王化 ,举众稽服,万里 驰义,请吏帅职,宜 加 宠遇,崇 其爵位 。既 使 兴等怀忠感 悦 ,远人闻之,必皆竞劝。其以兴为使 持 节、都 督 交州诸军事 、南中 大将 军,封 定 安 县侯,得 以便宜 从事,先行 后 上 。" - ^ Hoa dương vật chí《
華陽 國 志 》 - ^ Nguyên văn: "Dao lĩnh", nghĩa là lĩnh chức cai trị ở một nơi xa mà không cần phải đích thân đến đóng trị sở nơi ấy.
Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]
- Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Ngoại Kỷ Toàn Thư 4: Thuộc Tấn - Tống - Tề - Lương. Lý Nam Đế (227 - 602)
- John Crawfurd (1828), Journal of an embassy from the Governor-General of India to the courts of Siam and Cochin-China: exhibiting a view of the actual state of those kingdoms. SOUTHEAST ASIA VISIONS, Cornell University Library’s John M. Echols Collection. Volume 2. Chapter VII. From page 302-315.
- John Crawfurd (1856), A descriptive dictionary of the Indian islands & adjacent countries.
- Tấn thư - Đào Hoàng truyện
晉 書 •陶 璜傳 - Tam Quốc chí, quyển 28, Ngô thư, Tôn Hạo truyện《
三國志 》卷 四 十 八 「吳 書 ·孫 休 傳 」 - Tư trị thông giám, quyển 78, Ngụy ký 10, Cảnh Nguyên năm thứ tư《
資 治 通 鑒》卷 七 十 八 「魏 紀 十 ·景 元 四 年 」 - Hoa dương vật chí《
華陽 國 志 》 - Kiến Khang thực lục《
建 康 實錄 》