Triều Tiên Tuyên Tổ
Bài này không có nguồn tham khảo nào. (tháng 10/2022) |
Triều Tiên Tuyên Tổ | |||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Vua Triều Tiên | |||||||||
Triều Tiên Tuyên Tổ (1592 ~ 1593) | |||||||||
Quốc vương Triều Tiên | |||||||||
Trị vì | 3 tháng 8 năm 1567 - 16 tháng 3 năm 1608 40 năm, 226 ngày | ||||||||
Tiền nhiệm | Triều Tiên Minh Tông | ||||||||
Kế nhiệm | Quang Hải Quân | ||||||||
Thông tin chung | |||||||||
Sinh | Hán Thành | 26 tháng 11, 1552||||||||
Mất | 16 tháng 3, 1608 Đức Thọ Cung | (55 tuổi)||||||||
An táng | Mục Lăng ( | ||||||||
Thê thiếp | Ý Nhân Vương hậu Nhân Mục Vương hậu Trữ Khánh Cung Nhân tần Cung tần Kim thị | ||||||||
Hậu duệ |
| ||||||||
| |||||||||
Triều đại | Nhà Triều Tiên | ||||||||
Thân phụ | Đức Hưng Đại viện quân | ||||||||
Thân mẫu | Hà Đông Phủ đại phu nhân Trịnh thị |
Triều Tiên Tuyên Tổ | |
Hangul | 선조 |
---|---|
Hanja | |
Romaja quốc ngữ | Seonjo |
McCune–Reischauer | Sŏn-jo |
Hán-Việt | Tuyên Tổ |
Tên khai sinh | |
Hangul | 이연 |
Hanja | |
Romaja quốc ngữ | I Yeon |
McCune–Reischauer | I Yŏn |
Triều Tiên Tuyên Tổ (chữ Hán:
Thời gian đầu khi mới lên ngôi, Tuyên Tổ đại vương là một vị quốc vương cai trị tốt và hiệu quả, biết lo lắng và quan tâm tới chính sự. Nhưng sau này, ông đã bỏ bê việc triều chính. Triều đại của Tuyên Tổ phải đối mặt với cuộc xâm lăng Triều Tiên của Toyotomi Hideyoshi từ Nhật Bản. Dù cuộc xâm lược này thất bại, nhưng đã buộc Tuyên Tổ và triều đình phải bỏ chạy về phía Bắc Bình Nhưỡng, cho đến khi Minh Thần Tông gửi quân cứu viện sang. Sau khi trở về Hán Thành, ông là người đầu tiên sử dụng Đức Thọ Cung (
Ngày nay, Tuyên Tổ đại vương bị nhận xét là một trong những vị quốc vương bất tài nhất trong lịch sử nhà Triều Tiên[cần dẫn nguồn], đặc biệt do cách ông đối xử với Đô đốc Lý Thuấn Thần, nhân vật mà nhiều người cảm thấy xứng đáng được ưu ái cho chiến thắng liên tiếp chống lại cường địch Nhật Bản. Nhưng thay vào đó, ông lại giáng Đô đốc Lý xuống làm lính cho đến khi mất[cần dẫn nguồn].
Thân thế[sửa | sửa mã nguồn]
Tuyên Tổ đại vương có tên húy là Lý Diên (
Năm 1567, Triều Tiên Minh Tông qua đời mà không có con trai để kế vị, vì vậy quan viên triêu đình đã phải tìm một thành viên khác trong vương tộc để lên ngôi. Hà Thành Quân mới 15 tuổi được chọn để kế tục vương nghiệp, bởi ông còn trẻ và chưa biết gì về chính trị.
Thời gian đầu[sửa | sửa mã nguồn]
Thời gian đầu trị vì (1567 - 1575), Tuyên Tổ đại vương là một vị quân vương rất tốt; ông đã cống hiến cuộc sống và triều đại của mình để cải thiện cuộc sống cho dân chúng, cũng như củng cố lại đất nước sau sự mục nát chính trị do cách cai trị tàn bạo của Yên Sơn Quân và các quy định lỏng lẻo trong triều đại Triều Tiên Trung Tông.
Tuyên Tổ khuyến khích nhiều học giả Nho giáo, những người bị ngược đãi bởi tầng lớp quý tộc dưới thời Yên Sơn Quân và Trung Tông. Ông tiếp tục thực hiện những cải cách mà Minh Tông đang tiến hành, ông trọng dụng nhiều nho sĩ nổi tiếng, trong đó có Lý Hoảng, Lý Nhị, Trịnh Triệt (
Tuyên Tổ cải cách lại hệ thống các kỳ thi, đặc biệt là sát hạch quy cách và trình độ. Các kỳ thi trước đây chủ yếu đều liên quan tới văn học, không phải là chính trị hay lịch sử. Ông ra lệnh cho hệ thống này sẽ được cải tổ bằng việc tăng tầm quan trọng của những đề tài khác. Ông cũng phục hồi danh tiếng cho các học giả như Triệu Quang Tổ (
Đảng tranh[sửa | sửa mã nguồn]
Trong số các Nho sĩ được Tuyên Tổ trọng dụng thì Thẩm Nghĩa Khiêm (沈義
Ban đầu, phái Tây Nhân nhận được những đặc ân của nhà vua, kể từ lúc Thẩm Nghĩa Khiêm theo Nhân Thuận Vương hậu và cũng đã có được sự ủng hộ từ những đại quý tộc. Tuy nhiên, các cải cách của phái Đông Nhân đã giúp họ đoạt được ảnh hưởng và loại dần phái Tây Nhân ra khỏi quyền lực. Thời gian đầu, những cải cách của phái Đông Nhân phát triển nhanh chóng để lấy ảnh hưởng; nhưng sau đó nhiều người trong phái Đông Nhân bắt đầu yêu cầu những người khác kìm hãm các cải cách. Phái Đông Nhân lại một lần nữa được tách thành phái Bắc Nhân (
Liễu Thành Long (
Những thiên hướng chính trị đã làm cho đất nước suy yếu đi, vì số lượng binh lính phục vụ quân đội cũng là một trong số những vấn đề của cuộc cải cách. Lý Nhị, một người bảo thủ trung lập đã đề nghị nhà vua tăng số lượng quân lính để chống lại những cuộc xâm lược của Nữ Chân và Nhật Bản trong tương lai. Tuy nhiên, cả hai phe đều bác bỏ các đề xuất của Lý Nhị, và số lượng quân đội đã được giảm khá nhiều vì đa số mọi người đều tin tưởng rằng nền hòa bình sẽ còn kéo dài. Mãn Châu và Nhật Bản đã nhân lợi dụng cơ hội này để mở rộng ảnh hưởng ở Đông Á, dẫn đến Cuộc chiến tranh Bảy năm, nền tảng của nhà Thanh ở Trung Quốc mà cả hai việc này đều sẽ dẫn tới sự tàn phá trên bán đảo Triều Tiên.
Ngoại xâm[sửa | sửa mã nguồn]
Tuyên Tổ đại vương đương thời phải giáp mặt cùng nhiều khó khăn để qiải quyết và đối phó với cả hai mối đe dọa mới. Ông cử nhiều vị tướng có tài cầm quân lên biên giới phía Bắc, trong khi ở phía Nam thì ông chỉ đàm phán với Oda Nobunaga, Toyotomi Hideyoshi và Tokugawa Ieyasu và lơi lỏng sự bố phòng. Tuy nhiên, sau khi Phong Thần Tú Cát thống nhất Nhật Bản, người Nhật đã nhanh chóng sớm chứng tỏ mình mới thực sự là mối đe dọa của Triều Tiên. Người Triều Tiên bắt đầu quan ngại và lo sợ rằng đất nước mình sẽ bị xâm lăng bởi Nhật Bản. Nhiều quan lại đã khẩn thiết yêu cầu nhà vua gửi sứ thần đến gặp Toyotomi Hideyoshi, mục đích chính của họ là để tìm hiểu xem liệu có phải ông ta đang chuẩn bị cho cuộc xâm lược hay không.
Tuy nhiên, hai phái đứng đầu triều đình đã không đồng ý về vấn đề mang tầm quan trọng của đất nước, vì thế một thỏa hiệp đã được thực hiện và mỗi nhóm sẽ cử một đại diện đến gặp Toyotomi Hideyoshi. Khi trở về, báo cáo của các vị đại biểu đã gây ra sự nhầm lẫn và tranh cãi nhiều hơn. Hwang Yun-gil của phái Tây Nhân bảo rằng Hideyoshi đã nâng cao thêm số lượng rất lớn cho quân đội, nhưng Kim Seong-il của phái Đông Nhân lại cho rằng những lực lượng lớn không phải là để chuẩn bị cho cuộc chiến tranh Triều Tiên, kể từ lúc ông ta cố gắng hoàn thành những cải cách của mình một cách nhanh chóng để ngăn chặn tình trạng vô kỉ luật và dẹp bỏ nạn cướp bóc đang lan xuống nông thôn. Khi mà phái Đông Nhân đang có tiếng nói trong triều đình lúc bấy giờ thì thông báo của Hwang đã bị bỏ qua, và Tuyên Tổ quyết định không chuẩn bị cho chiến tranh, mặc dù thái độ và lời lẽ của Phong Thần Tú Cát, trong bức thư gửi cho nhà vua rõ ràng cho thấy sự quan tâm của mình trong cuộc chinh phục của châu Á.
Trong Chiến tranh Nhật Bản - Triều Tiên (1592 - 1598), mặc dù Triều Tiên giành được thắng lợi nhưng chiến tranh đã làm cho đất nước bị suy kiệt hết sức nặng nề. Mà các triều đại sau này không bao giờ có thể lấy lại được sự thịnh vượng như trước đây.
Cuối đời[sửa | sửa mã nguồn]
Sau khi chiến tranh kết thúc, việc tái thiết đất nước đã bị cản trở bởi hai phe phái lớn trong triều đình. Phái Đông Nhân có thể lực lớn sau chiến tranh, với nhiều người trong số đó được ca ngợi là những anh hùng quân sự. Sau đó, phái Đông Nhân lại bị chia rẽ giữa những người vào trước và sau, các cuộc tranh giành của những phe phái trở nên thậm chí còn mạnh mẽ hơn. Tuyên Tổ chán nản, không màng đến chính sự nên để cho Quang Hải Quân giải quyết thay mình. Tuy nhiên, khi Nhân Mục Vương hậu sinh được vương tử cho nhà vua, vấn đề kế vị lại trở thành một sự tranh chấp giữa các phe phái trong triều, vì Quang Hải Quân là con của một hậu cung.
Năm 1608, ngày 1 tháng 2, Tuyên Tổ đại vương thăng hà ở Đức Thọ Cung, hưởng thọ 56 tuổi. Ông được an táng ở Mục Lăng (
Gia đình[sửa | sửa mã nguồn]
- Thân phụ: Đức Hưng Đại viện quân Lý Triệu (
德 興 大院君 李 岹; 1530 - 1559), là con trai của Triều Tiên Trung Tông và Xương tần An thị (昌 嬪安氏 ). - Thân mẫu: Hà Đông Phủ đại phu nhân Trịnh thị (
河東 府 大 夫人 鄭 氏 ; 1530 - 1567), con gái của Trịnh Thế Hổ (鄭 世 虎 ), sau khi thành hôn với Đức Hưng quân thì có phong hiệu là Hà Đông quạn phu nhân (河東 郡 夫人 ). Bà qua đời vào ngày 18 tháng 5, trước khi Tuyên Tổ lên ngôi 2 tháng. Sau đó, bà được tặng phong hiệu Phủ đại phu nhân (府 大 夫人 ). - Huynh tỉ:
- Hà Nguyên quân (
河原 君 ; 1545 - 1597), lấy Nam Dương quận phu nhân Hồng thị (南陽 郡 夫人 洪 氏 ) và Tân An quận phu nhân Lý thị ở Tinh Châu (新 安 郡 夫人 星 州 李 氏 ). - Hà Lăng quân (
河 陵 君 ; 1546 - 1592), lấy Bình Sơn quận phu nhân Thân thị (平山 郡 夫人 申 氏 ). Về sau nhận con nuôi thờ tự là Cẩm Nguyên quân Lý Tĩnh (錦 原 君 李 岭). - Trinh phu nhân Lý thị (
貞 夫人 李 氏 ; 1548 - 1637), tên là Minh Thuận (明 順 ), lấy Quảng Dương quân An Hoảng (廣陽 君 安 滉 ).
- Hậu cung:
- Ý Nhân Vương hậu Phác thị (懿仁
王 后 朴 氏 , 1555 - 1600), người ở Phan Nam, là con gái của Phan Thành phủ viện quân Phác Ứng Thuận (潘 城府 院 君 朴 應 順 ) và Hoàn Sơn phủ phu nhân Lý thị ở Toàn Châu (完 山 府 夫人 全 州 李 氏 ). Bà không sinh được con. - Nhân Mục Vương hậu Kim thị (
仁 穆 王 后 金 氏 , 1584 - 1632), người ở Diên An, là con gái của Diên Hưng phủ viện quân Kim Đễ Nam (延 興 府 院 君 金 悌男) và Quang Sơn phủ phu nhân Lô thị ở Quang Châu (光山 府 夫人 光州 盧 氏 ). Bà hạ sinh ra Vĩnh Xương Đại Quân Lý Nghĩa, con trai út của Tuyên Tổ. - Cung tần Kim thị (1553 - 1577), người Kim Hải. Nhập cung năm 1571, ban đầu là Thục viên, dần thăng đến Quý nhân, sau khi mất truy tặng chức tần. Là sủng thiếp của Tuyên Tổ những năm đầu. Sinh bốn con trai: Lâm Hải quân, Quang Hải quân và hai vương tử chết yểu. Sau khi Quang Hải quân kế vị, truy tôn là Cung Thánh vương hậu. Quang Hải bị phế, Nhân Tổ hạ chiếu tước bỏ tôn hiệu của bà.
- Kính Huệ Nhân tần Kim thị (
敬 惠 仁 嬪金氏 , 1555 - 1613), người ở Thủy Nguyện, là con gái của Kim Hán Hựu (金 漢 佑 ) và Toàn Châu Lý thị (全 州 李 氏 ), sủng thiếp của Tuyên Tổ những năm cuối. Bà hạ sinh 4 vương tử và 5 vương nữ, gồm: Nghĩa An Quân, Tín Thành Quân, Định Viễn Quân, Nghĩa Xương Quân, Trinh Thận ông chúa, Trinh Huệ ông chúa, Trinh Thục ông chúa, Trinh An ông chúa và Trinh Huy ông chúa. Về sau khi cháu nội của bà là Triều Tiên Nhân Tổ kế vị, bà được dâng cung hiệu là Trữ Khánh Cung (儲 慶 宮 ). - Thuận tần Kim thị (
順 嬪金氏 , ? - 1647), không rõ xuất thân. Năm 1592, tấn phong Thục dung (淑 容 ). Đến năm 1604, tấn phong làm Thục nghi (淑 儀 ). Hạ sinh ra Thuận Hòa Quân Lý Phổ là con trai duy nhất. - Tĩnh tần Mẫn thị (
靜 嬪閔氏 , 1567 - 1626), người ở Li Hưng, là con gái của Mẫn Sĩ Tuấn (閔士俊 ) và Tân Xương Mạnh thị (新 昌 孟 氏 ). - Trinh tần Hồng thị (
貞 嬪洪氏 ), người ở Nam Dương. Con gái của Tặng Lại tào Tham phán Hồng Nhữ Khiêm và Tặng Trinh phu nhân họ Tào ở Xương Ninh. - Ôn tần Hàn thị (
溫 嬪韓氏 , 1581 - 1664), người ở ở Thanh Châu. Con gái của Trung nghĩa vệ Hàn Sĩ Hưởng và phu nhân họ Phác ở Trúc Sơn. - Quý nhân Trịnh thị (
貴人 鄭 氏 ), người ở Diên Nhật. Con gái của Tặng Tư hiến đại phu, Binh tào Phán thư Trịnh Hoảng và Tặng Trinh phu nhân họ Hàn ở Phú Bình. - Thục nghi Trịnh thị (
淑 儀 鄭 氏 ), người ở Đông Lai. Con gái của Trịnh Thuần Hi và Phu nhân họ Doãn ở Hải Bình. - Phế Chiêu viên họ Doãn (
昭 媛 尹 氏 ).
Vương tử[sửa | sửa mã nguồn]
- Lâm Hải Quân Lý Duật [
臨海 君 李 珒; 1572 - 1609], mẹ là Cung tần họ Kim. Lấy quân phu nhân họ Hứa ở Dương Xuyên. Bị em cùng mẹ là Quang Hải quân giết hại. - Quang Hải Quân Lý Hồn [
光 海 君 李 琿], mẹ là Cung tần họ Kim. Lấy Văn Thành quân phu nhân họ Liễu ở Văn Hóa. - Nghĩa An Quân Lý Thành [
義 安 君 李 珹; 1577 - 1588], mẹ là Trữ Khánh Cung Nhân tần. - Tín Thành Quân Lý Dực [
信 城 君 李 珝; 1578 - 1592], mẹ là Trữ Khánh Cung Nhân tần. Lấy quận phu nhân họ Thân ở Bình Sơn. - Định Viễn Quân Lý Phu [
定 遠 君 李 琈; 1580 - 1619], mẹ là Trữ Khánh Cung Nhân tần. Sinh ra Triều Tiên Nhân Tổ, được tấn tôn làm Nguyên Tông đại vương (元宗 大王 ). - Thuận Hòa Quân Lý Thổ [
順 和 君 李 𤣰; 1580 - 1607], mẹ là Thuận tần Kim thị. Lấy quận phu nhân họ Hoàng ở Trường Thủy - Nhân Thành Quân Lý Cộng [
仁 城 君 李 珙; 1588 - 1628], mẹ là Tĩnh tần Mẫn thị. Lấy Hải Bình quận phu nhân họ Doãn - Nghĩa Xương Quân Lý Quang [
義昌 君 李 珖; 1589 - 1645], mẹ là Trữ Khánh Cung Nhân tần. Lấy quận phu nhân họ Hứa ở Dương Xuyên - Khánh Xương Quân Lý Đan [
慶 昌 君 李 珘; 1596 - 1604], mẹ là Trinh tần Hồng thị. Lấy quận phu nhân họ Tào ở Xương Ninh - Hưng An Quân Lý Thi [
興 安 君 李 瑅; 1598 - 1624], mẹ là Ôn tần Hàn thị. Lấy quận phu nhân họ Hàn ở Thanh Châu và quận phu nhân họ Doãn ở Pha Bình. - Khánh Bình Quân Lý Lực [
慶 平 君 李 玏; 1600 - 1643], mẹ là Ôn tần Hàn thị. Lấy quận phu nhân họ Thôi ở Sóc Ninh. - Nhân Hưng Quân Lý Anh [
仁 興 君 李 瑛 ; 1604 - 1651], mẹ là Tĩnh tần Mẫn thị. Lấy quận phu nhân họ Tống ở Lệ Sơn. - Ninh Thành Quân Lý Quý [
寧 城 君 李 㻑; 1606 - 1649], mẹ là Ôn tần Hàn thị. lấy quận phu nhân họ Hoàng ở Xương Nguyện. - Vĩnh Xương Đại Quân Lý Nghĩa [
永昌 大君 李 㼁; 1606 - 1614], mẹ là Nhân Mục Vương hậu.
Vương nữ[sửa | sửa mã nguồn]
- Trinh Thận Ông chúa [
貞 慎 翁 主 ; 1582 - 1653], mẹ là Nhân tần Kim thị. Hạ giá lấy Đạt Thành úy Từ Cảnh Thọ (徐 景 霌). - Trinh Huệ Ông chúa [
貞惠 翁 主 ; 1584 - 1638], mẹ là Nhân tần Kim thị. Hạ giá lấy Hải Tung úy Doãn Tân Chi (尹 新 之 ). - Trinh Thục Ông chúa [
貞淑 翁 主 ; 1587 - 1627], mẹ là Nhân tần Kim thị. Hạ giá lấy Đông Dương úy Thân Dực Thánh (申 翊聖). - Trinh Nhân Ông chúa [
貞仁 翁 主 ; 1590 - 1656], mẹ là Tĩnh tần Mẫn thị. Hạ giá lấy Đường Nguyện úy Hồng Hữu Kính (洪 友 敬 ). - Trinh An Ông chúa [
貞 安 翁 主 ; 1590 - 1660], mẹ là Nhân tần Kim thị. Hạ giá lấy Cẩm Dương quân Phác Di (朴 瀰). - Trinh Huy Ông chúa [
貞 徽翁主 ; 1593 - 1653], mẹ là Nhân tần Kim thị. Hạ giá lấy Toàn Xương quân Liễu Đình Lượng (柳 廷亮). - Trinh Thiện Ông chúa [
貞 善 翁 主 ; 1594 - 1614], mẹ là Tĩnh tần Mẫn thị. Hạ giá lấy Cát Thành quân Quyền Đại Nhâm (權 大任 ). - Trinh Chính Ông chúa [
貞 正 翁 主 ; 1595 - 1666], mẹ là Trinh tần Hồng thị. Hạ giá lấy Tấn An úy Liễu Phước (柳 頔). - Trinh Cẩn Ông chúa [
貞 謹翁主 ; 1599 - 1613], mẹ là Tĩnh tần Mẫn thị. Hạ giá lấy Nhất Thiện úy Kim Khắc Tấn (金 克 鑌). - Trinh Minh Công chúa [
貞明 公主 ; 1603 - 1685], mẹ là Nhân Mục Vương hậu. Hạ giá lấy Vĩnh An úy Hồng Trụ Nguyên (洪 柱 元 ). - Công chúa [
公主 ; 1604], mẹ là Nhân Mục vương hậu. - Trinh Hòa Ông chúa [
貞和 翁 主 ; 1604 - 1666], mẹ là Ôn tần Hàn thị. Hạ giá lấy Đông Xương úy Quyền Đại Hằng (權 大 恒 ).
Thụy hiệu[sửa | sửa mã nguồn]
- King Seonjo Sogyung Jeongryun Ripgeuk Seongdeok Hongryeol Jiseong Daeeui Gyeokcheon Heeun Gyungmyung Sinryeok Honggong Yungeop Hyeonmun Euimu Seongye Dalhyo the Great of Korea.
- 선조소경정륜립극성덕홍렬지성대의격천희운경명신력홍공융업현문의무성예달효대왕.
宣 祖 昭 敬 正 倫 立 極 盛德 洪 烈 至誠 大義 格 天 熙運景 命 神 曆 弘 功 隆 業 顯 文 毅 武 聖 睿達孝 大王 .- Tuyên Tổ Chiêu Kính Chính Luân Lập Cực Thịnh Đức Hồng Liệt Chí Thành Đại Nghĩa Cách Thiên Hy Vận Cảnh Mệnh Thần Lịch Hoằng Công Long Nghiệp Hiển Văn Nghị Vũ Thánh Duệ Đạt Hiếu Đại Vương.
Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]
Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]
- Bài này được dịch từ Wikipedia tiếng Anh và tiếng Trung.