(Translated by https://www.hiragana.jp/)
Viêm Đế – Wikipedia tiếng Việt Bước tới nội dung

Viêm Đế

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Viêm Đế
Thần Nông nếm các loại thảo mộc để khám phá phẩm chất của chúng.
Tiếng Trungほのおみかど
Nghĩa đenHỏa Đức Vương

Viêm Đế (tiếng Trung: ほのおみかど) hay Hỏa Đức Vương (德王とくおう)[1] là một vị vua cổ đại huyền thoại của Trung Quốc vào thời kỳ tiền triều đại. Học thuật hiện đại đã xác định núi Dương Đầu ngay phía bắc Bảo Kê trong tỉnh Thiểm Tây là quê hương và lãnh thổ của ông.[2]

Một cuộc tranh luận kéo dài đã tồn tại về việc liệu Viêm Đế có phải là nhân vật huyền thoại Thần Nông hay không. Một hội thảo học thuật được tổ chức tại Trung Quốc vào năm 2004 đã đạt được sự đồng thuận chung rằng Viêm Đế và Thần Nông là một người.[3] Một khả năng khác là thuật ngữ "Hỏa Đức Vương" là một tước hiệu, được nắm giữ theo kế vị triều đại của các lãnh chúa bộ lạc, với Thần Nông được biết đến với tên gọi Viêm Đế có lẽ sau khi đã qua đời. Theo đó, thuật ngữ các "Hỏa Đức Vương" nói chung sẽ chính xác hơn. Sự kế vị của các vị Hỏa Đức Vương này, từ Thần Nông - vị Hỏa Đức Vương đầu tiên - cho đến thời điểm vị Hỏa Đức Vương cuối cùng bị Hoàng Đế đánh bại, có thể đã khoảng 500 năm.[1][4]

Ghi chép lịch sử

[sửa | sửa mã nguồn]

Không có ghi chép thành văn nào được biết là tồn tại từ thời trị vì của Viêm Đế. Tuy nhiên, ông và Thần Nông được nhắc đến trong nhiều tác phẩm kinh điển của Trung Quốc cổ đại. Viêm theo nghĩa đen có nghĩa là "lửa", ngụ ý rằng người dân của Viêm Đế có thể coi biểu tượng lửa như các vật tổ bộ lạc của họ. Ngô Quốc Trinh (くれこく楨, Wu K. C.) phỏng đoán rằng danh xưng này có thể liên quan đến việc sử dụng lửa để đốt ruộng nương trong nông nghiệp kiểu đốt rừng làm nương rẫy.[4] Trong mọi trường hợp, có vẻ như những cải tiến nông nghiệp của Thần Nông và hậu duệ của ông đã góp phần vào một số thành công kinh tế-xã hội, làm họ tự phong mình là đế (みかど), thay vì là hầu (ほう) như trong trường hợp của các thủ lĩnh các bộ lạc nhỏ hơn. Vào thời điểm này, dường như mới chỉ có những khởi đầu thô sơ của chữ viết, và để duy trì việc ghi chép thì một hệ thống các dây thắt nút (có lẽ tương tự như quipu ở Nam Mỹ) đã được sử dụng.[5] Tả truyện ghi lại rằng vào năm 525 TCN các hậu duệ của Viêm Đế được công nhận là những bậc thầy về lửa từ lâu và đã sử dụng lửa trong họ tên của họ.[6] Viêm Đế cũng được coi là "Hoàng đế của phương Nam".[7]

Sụp đổ

[sửa | sửa mã nguồn]

Vị Viêm Đế cuối cùng đã kết thúc triều đại của mình trong trận đánh thứ ba trong chuỗi ba trận chiến, được gọi là trận Phản Tuyền. Vị trí chính xác của trận chiến này vẫn còn tranh cãi giữa các nhà sử học hiện đại, do nhiều địa điểm sử dụng cùng một tên gọi ở các thời điểm khác nhau trong lịch sử. Các ứng cử viên có thể bao gồm huyện Trác Lộc và huyện Hoài LaiTrương Gia Khẩu, tỉnh Hà Bắc; quận Diên KhánhBắc Kinh; huyện Phù CâuChu Khẩu, tỉnh Hà Nam, và quận Diêm HồVận Thành, tỉnh Sơn Tây.

Viêm Đế vừa mới phải rút lui trước cuộc xâm lăng trong thời gian ngay trước đó của các lực lượng của Xi Vưu thì đã xảy ra xung đột lãnh thổ với các bộ tộc Hữu Hùng láng giềng do Hoàng Đế lãnh đạo. Viêm Đế bị đánh bại sau ba trận chiến liên tiếp và đầu hàng Hoàng Đế, người tự xưng là cộng chủ (ともぬし) và đồng ý hợp nhất hai bộ lạc thành một liên minh mới - bộ lạc Viêm Hoàng. Dưới sự lãnh đạo của Hoàng Đế, các bộ tộc mới được kết hợp sau đó đã tham chiến và đánh bại Xi Vưu trong trận Trác Lộc, đồng thời thiết lập sự thống trị về văn hóa và chính trị của họ ở Trung Quốc.

Tính lịch sử

[sửa | sửa mã nguồn]

trận Phản Tuyền được Tư Mã Thiên coi như một sự kiện lịch sử trong Sử ký của ông, nên có vẻ như đây là điểm chuyển tiếp quan trọng giữa huyền thoại và lịch sử. Trớ trêu thay, Viêm Đế chỉ đi vào lịch sử với sự khất phục trước ý chí của Hoàng Đế. Trong mọi trường hợp, tước hiệu Hỏa Đức Vương dường như mất hiệu lực sau thời gian này, trong khi các hậu duệ của bộ lạc của ông được cho là tồn tại mãi mãi thông qua hôn nhân liên bộ lạc với các hậu duệ của bộ lạc của Hoàng Đế, và người Hán trong suốt lịch sử tự gọi mình là Viêm Hoàng tử tôn.

Trong văn hóa truyền thống

[sửa | sửa mã nguồn]
Miếu thờ Viêm Đế tại Bảo Kê, Thiểm Tây.

Trong một số khía cạnh, cả Hoàng Đế và Viêm Đế đều được coi là tổ tiên của văn hóa và người Trung Hoa. Ngoài ra, truyền thống liên kết một màu nhất định với một triều đại cụ thể có thể đã bắt đầu từ các Hỏa Đức Vương. Theo mô hình ngũ hành thì màu đỏ hay màu lửa lửa là hành Hỏa sẽ được kế tục bằng màu vàng, màu đất là hành Thổ - nghĩa là Viêm Đế được kế tục bởi Hoàng Đế. [8]

Danh sách các Viêm Đế/Hỏa Đức Vương

[sửa | sửa mã nguồn]

Thuyết về việc Viêm Đế truyền được 8 đời bắt nguồn từ sách chiêm nghiệm tốt xấu Xuân Thu mệnh lịch tự (春秋しゅんじゅういのちれきじょ) (khuyết danh, thời Hán).[9]

Danh sách phổ biến nhất do Hoàng Phủ Mật (215-282) trong sách Đế vương thế kỷ,[10] Từ Chỉnh (thế kỷ 3) trong sách Tam Ngũ lịch ký (thất truyền, tồn tại vài đoạn trong Thái Bình ngự lãm thời Tống và Nghệ văn loại tụ thời Đường), và Tư Mã Trinh (679-732) trong sách Sử ký tác ẩn:

Tên gọi Ghi chú
Thần Nông (かみみのり) Tên lúc sinh ra là Khương Thạch Niên (きょういしねん)
Lâm Khôi (臨魁)
Thừa (うけたまわ)
Minh (あきら) Được coi là cha của Kinh Dương Vương Lộc Tục trong huyền sử Việt Nam.[11]
Trực (ただし) hay Đế Nghi (むべ).
Ly (釐) hay Đế Lai () hoặc Khắc (かつ) Tư Mã Trinh xếp Đế Khắc sau Đế Ai. Các sách khác không xếp Khắc là vua. Đế Lai được coi là cha của Âu Cơ trong huyền sử Việt Nam.[11]
Ai (あい) hay Đế Lý (さと) hoặc Đế Cư (きょ)
Du Võng (榆罔) hay Du Cương (揄岡) Bị Hoàng Đế đánh bại tại trận Phản Tuyền?

Phả hệ

[sửa | sửa mã nguồn]

Phả hệ lấy theo Thông giám tục biên, Sử toản thông yếu, Độc thư kỉ sổ lược, Đại Việt Sử ký toàn thư.[11][12][13][14]


Trong Sơn hải kinh

[sửa | sửa mã nguồn]

Danh sách do Sơn hải kinh đưa ra:[16]

Tên gọi Ghi chú
Viêm Đế (ほのおみかど)
Viêm Cư (ほのおきょ) Còn được biết đến như là Trụ (はしら)
Tiết Tịnh (ふしなみ)
Hí Khí (おどけ)
Chúc Dung (祝融しゅくゆう)
Cộng Công (きょうこう)
Thuật Khí (じゅつ)
Hậu Thổ (きさき) Em trai Thuật Khí
Ế Minh (むせ) Con Hậu Thổ
Tuế Thập (としじゅう)

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]

Trích dẫn

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b Sử ký – Tam hoàng bản kỷ (bổ sung của Tư Mã Trinh cho phần Tam Hoàng bản kỷ đã mất của Sử ký.).
  2. ^ Hạ Vãn Đán (贺晚だん) và Dương Hồng Bảo (杨红), trong Vương & Mạnh (2005, tr. 3-4).
  3. ^ Dương Đông Thần (杨东晨), trong Vương & Mạnh (2005, tr. 15).
  4. ^ a b Ngô (1982, tr. 56)
  5. ^ Ngô 1982, tr. 56, ghi chú 26, dẫn chiếu Hứa Thận.
  6. ^ tiếng Trung: ひだり传•ひだりおかあきら: あきらおおやけじゅうななねん: ほのおみかど以火ため而火めい. (Tả truyện•Tả Khâu Minh: Chiêu Công thập thất niên: Viêm Đế thị dĩ hỏa kỉ, cố vi hỏa sư nhi hỏa danh.)
  7. ^ Nhiều tác giả (1991). Chinese America: History and Perspectives 1991. Chinese Historical Society. tr. 64. Truy cập ngày 1 tháng 4 năm 2012.
  8. ^ Ngô 1982, tr. 56–57.
  9. ^ "Xuân Thu mệnh lịch tự": [Viêm Đế hiệu viết Đại Đình thị, truyền bát thế, hợp ngũ bách nhị thập tuế]. (《春秋しゅんじゅういのちれきじょ》:「ほのおみかどごう大庭おおばつてはちせいごうひゃくじゅうさい」)
  10. ^ Dẫn lại trong Thái Bình ngự lãm – Hoàng vương bộ tam – Viêm Đế Thần Nông thị. Đoạn 1 (trích dẫn: "Đế vương thế kỉ" viết: Thần Nông thị, Khương tính dã. Mẫu viết Nhâm Tự, Hữu Kiều thị chi nữ, danh Nữ Đăng, vi Thiếu Điển phi. Du ư Hoa Dương, hữu Thần Long thủ cảm Nữ Đăng ư thường, sinh Viêm Đế, nhân thân ngưu thủ, trưởng ư Khương thủy, hữu thánh đức. Dĩ hỏa thừa mộc, vị tại nam phương, chủ hạ, cố vị chi Viêm Đế, đô ư Trần, tác ngũ huyền chi cầm. Phàm bát thế, Đế Thừa, Đế Lâm, Đế Minh, Đế Trực, Đế Lai, Đế Ai, Đế Du Cương. Hựu viết bản khởi Liệt Sơn, hoặc thì xưng chi, nhất hiệu Khôi Ngôi thị, thị vi Nông Hoàng, hoặc viết Đế Viêm. Thời chư hầu túc sa thị bạn bất dụng mệnh, Viêm Đế thoái nhi tu đức, túc sa chi dân tự công kì quân nhi quy Viêm Đế, doanh đô ư Lỗ. Trọng bát quái chi sổ, cứu bát bát chi thể vi lục thập tứ quái, tại vị bách nhị thập niên nhi băng, táng Trường Sa. (《帝王ていおう世紀せいき》曰:かみみのりきょうせい也。はは曰任姒,ゆうたかしおんなめいおんなとうためしょうてんゆう於華ゆうかみりゅうくびかんおんなとう於常,なまえんみかど人身じんしん牛首うしくびちょう於姜すいゆう聖德せいとく。以火うけたまわざい南方なんぽうしゅなついいほのおみかど於陳,さくげんきん。凡はちせいみかどうけたまわみかど臨、みかどあきらみかどじきみかどらいみかどあいみかど揄岡。また曰本おこりれつさんあるときしょういちごうさきがけ隗氏,ためのうすめらぎある曰帝えんとき諸侯しょこう夙沙叛不用命ようめいほのおみかど退すさ而修とく,夙沙みんおさむ其君而歸えんみかど,營都於魯。じゅう八卦はっけかずきわむ八八之體為六十四卦,在位ざいいひゃくじゅうねん而崩,そうちょうすな。)
  11. ^ a b c Đại Việt Sử Ký Ngoại Kỷ Toàn Thư – Quyển I. Kỷ Hồng Bàng thị.
  12. ^ Trần Kình (ひね桱). Thông giám tục biên (つうかん續編ぞくへん). Quyển 1. Đoạn 8: Tại vị 140 năm, mất ở Trường Sa ..... Thần Nông thị lấy người con gái Mãng Thủy thị tên là Thính Bạt, sinh Lâm Khôi tự lập làm Viêm Đế, tại vị 80 năm, Lâm Khôi sinh Đế Thừa, tại vị 60 năm, Thừa sinh Đế Minh, tại vị 49 năm, Minh sinh Đế Nghi lại viết là Đế Trực tại vị 45 năm, Nghi sinh Đế Lai còn viết là Đế Khắc tại vị 48 năm, Lai sinh Đế Lý lại viết là Đế Cư tại vị 43 năm, Cư sinh Tiết Hành, Tiết Hành sinh Khắc và Hí, đều không làm vua, Khắc sinh Đế Du Võng.... Chư hầu quy phục vua 55 năm .... (在位ざいいひゃくよんじゅうねんくずし于長すな....かみみのりおさめ莽水じょ曰聽詙生臨魁嗣為えんみかど在位ざいいはちじゅうねん臨魁せいみかどうけたまわ在位ざいいろくじゅうねんうけたまわなまみかどあかり在位ざいいよんじゅうきゅうねん明生あきおみかどよろしまた曰帝ちょく在位ざいいよんじゅうねん冝生みかどらいまた曰帝かつ在位ざいいよんじゅうはちねん來生きすぎみかどうらまた曰帝きょ在位ざいい四十三年居生節莖節莖生克及戲皆不在帝位克生帝榆罔 ... 諸侯しょこうみかどじゅうねん)
  13. ^ Hồ Nhất Quế (えびすいちかつら), Sử toản thông yếu. Quyển 1. Đoạn 9-10: Thần Nông: Thần Nông thị sau có đế Lâm Khôi, đế Thừa, đế Minh, đế Trực, đế Lai, đế Ai, đế Du Võng tất cả là tám đời. (かみ农氏きさきまたゆうみかど临魁みかどうけたまわみかどあかりみかどちょくみかどらいみかどあいみかど榆㒺どおりはちだい ....)
  14. ^ Cung Mộng Nhân (宫梦じん). Độc thư kỉ sổ lược: Viêm Đế Thần Nông, truyền cho con trai là Lâm Khôi, con trai Lâm Khôi là Thừa, con trai Thừa là Minh, con trai Minh là Nghi, con trai Nghi là Lai, con trai Lai là Lý, chắt Lý là Du Võng, gồm 8 đời.
  15. ^ Tư Mã Trinh coi là một vị vua.
  16. ^ Sơn hải kinh. Hải kinh. Quyển 13. Chương 18. Hải nội kinh, trích dẫn: ほのおみかどつま赤水あかみず之子ゆきこ聽訞せいえんほのおきょ生節なまぶしなみせつなみせいおどけおどけせい祝融しゅくゆう祝融しゅくゆうくだしょ於江すいなまともこうきょうこうせいじゅつじゅつくびかた顚,ふくみのる,以處すいきょうこうせいきさききさき土生はぶむせむせなまとしじゅうゆう
  • Vương Thụ Tân (おう树新); Mạnh Thế Khải (はじめ凯) biên tập (2005). Viêm Đế văn hóa ほのおみかど文化ぶんか. Bắc Kinh: Trung Hoa thư cục (ちゅう华书きょく). ISBN 7101048544.
  • Ngô Quốc Trinh (くれこく楨, Wu K. C.) (1982). The Chinese Heritage. New York: Crown Publishers. ISBN 0-517-54475-X.