Tứ Xuyên
Tứ Xuyên | |
---|---|
— Tỉnh — | |
Chuyển tự tên | |
• Giản xưng | Xuyên ( |
Quốc gia | Trung Quốc |
Thủ phủ | Thành Đô |
Chính quyền | |
• Bí thư Tỉnh ủy | Vương Hiểu Huy ( |
• Tỉnh trưởng | Hoàng Cường ( |
Diện tích | |
• Tỉnh | 485.000 km2 (187,000 mi2) |
Thứ hạng diện tích | thứ 5 |
Dân số (2017) | |
• Tỉnh | 83,020,000 |
• Mật độ | 170/km2 (440/mi2) |
• Đô thị | 42,170,000 |
Múi giờ | UTC+8 |
Mã ISO 3166 | CN-SC |
Thành phố kết nghĩa | Ceprano, Yamanashi, Hiroshima |
GDP (2018) - trên đầu người | 4.068 tỉ (615 tỉ USD) NDT (thứ 6) 48.998 (7.404 USD) NDT (thứ 18) |
HDI (2016) | 0,780 (thứ 24) — trung bình |
Các dân tộc chính | Hán - 95% Di - 2,6% Tạng - 1,5% Khương - 0,4% |
Ngôn ngữ và phương ngôn | tiếng Tứ Xuyên, tiếng Tương, tiếng Di, tiếng Tạng, tiếng Khương, tiếng Khách Gia |
Trang web | SC |
Nguồn lấy dữ liệu dân số và GDP: 《 Nguồn lấy dữ liệu dân tộc: 《2000 |
Tứ Xuyên (tiếng Trung:
Năm 2018, Tứ Xuyên là tỉnh đông thứ tư về số dân, đứng thứ sáu về kinh tế Trung Quốc với 83 triệu dân, tương đương với Đức [1] và GDP đạt 4.068 tỉ NDT (615,4 tỉ USD) tương ứng với Đài Loan.[2]
Tỉnh Tứ Xuyên có một lịch sử lâu dài, cảnh quan đẹp, sản vật phong phú, từ xưa đã được gọi là Thiên phủ chi quốc (
Lịch sử
[sửa | sửa mã nguồn]Vào khoảng triều nhà Thương, vùng đất Tứ Xuyên đã xuất hiện nước Ba, Thục, đặc biệt là nền văn minh Tam Tinh Đôi (hoặc gọi là nền văn minh đồi Ba Sao), văn minh Kim Sa là đại biểu cho nền văn minh Thục thời xa xưa phát đạt cao độ. Sau khi vương triều Tần thống trị Tứ Xuyên, văn hoá Ba Thục và văn hoá Trung Nguyên hoà trộn lẫn nhau, trở thành một trong những đầu nguồn trọng yếu của văn hoá Trung Hoa, nắm giữ vị trí quan trọng trong lịch sử Trung Quốc.
Nguồn gốc tên đất Tứ Xuyên
[sửa | sửa mã nguồn]Vào khoảng năm Hàm Bình hoàng đế Tống Chân Tông triều Bắc Tống, xuyên hạp lộ (
Tiên Tần
[sửa | sửa mã nguồn]Trong suốt thời kỳ tiền sử và lịch sử ban đầu của mình, Tứ Xuyên và các vùng phụ cận trong lưu vực Trường Giang là các nôi của các nền văn minh bản địa có thể có niên đại ít nhất từ thế kỷ XV TCN và trùng hợp với những năm cuối của nhà Thương và trong thời nhà Chu ở phía bắc Trung Quốc. Tứ Xuyên đã xuất hiện trong các thư tịch cổ Trung Hoa với cái tên Ba Thục (
Tứ Xuyên | |||||||||||||||||||||||||||||
Tiếng Trung | |||||||||||||||||||||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Bính âm Hán ngữ | Sìchuān ⓘ | ||||||||||||||||||||||||||||
Bính âm tiếng Tứ Xuyên | Si4cuan1 | ||||||||||||||||||||||||||||
Latinh hóa | Szechwan or Szechuan | ||||||||||||||||||||||||||||
|
Sự tồn tại của nước Cổ Thục được ghi lại rất nghèo nàn trong các chính sử của Trung Hoa, song trong Kinh Thư nước Thục được ghi là một đồng minh đã giúp nhà Chu lật đổ được nhà Thương.[5] Các mô tả về nước Thục chủ yếu là pha trộn giữa các câu chuyện thần thoại và truyền thuyết lịch sử, chúng được chép trong các biên niên sử địa phương như Hoa Dương quốc chí (
Nước Ba thường được mô tả là một liên minh lỏng lẻo hoặc là một tập hợp các tù trưởng, bao gồm một số thị tộc độc lập liên kết lỏng lẻo cùng công nhận một vị vua. Các thị tộc người Ba rất đa dạng, bao gồm nhiều sắc tộc. Các bằng chứng khảo cổ cho thấy người Ba dựa chủ yếu vào đánh cá và săn bắn, hoạt động nông nghiệp ở mức độ thấp và không có bằng chứng về thủy lợi. Nước Ba đã liên minh với nước Tần khi Tần đánh Thục. Sau khi Thục bị diệt, Tần ngay lập tức chinh phục đồng minh và bắt vua nước Ba. Ba sau đó trở thành một quận của Tần.
Khu vực Tứ Xuyên thời cổ có niềm tin tôn giáo và thế giới quan riêng biệt. Có các tài nguyên quặng khác nhau. Thêm vào đó, khu vực này cũng thêm phần quan trọng khi nằm trên tuyến đường thương mại giữa thung lũng Hoàng Hà và các quốc gia khác ở phía tây nam, đặc biệt là các nước nay thuộc lãnh thổ Ấn Độ.
Nhà Tần
[sửa | sửa mã nguồn]Sau khi nước Tần tiêu diệt cả hai nước Thục và Ba, các bản văn cùng các thành tựu của hai nước này đều bị Tần phá hủy. Triều đình Tần sáp nhập Thục và Ba thành hai quận của mình, Tần gửi quan chức đến trực tiếp cai trị tại Thục và chủ động khuyến khích dân di cư từ Tần tới Thục. Tuy nhiên đối với Ba, ban đầu Tần vẫn để tầng lớp trên của nước Ba cũ tiếp tục cai trị trực tiếp và không tiến hành cưỡng bách người Tần di cư quy mô lớn đến lãnh thổ Ba, song tầng lớp này về sau đã bị đẩy ra ngoài lề trong một chính sách chia để trị. Tần dường như cũng đã đưa các kỹ thuật nông nghiệp tiên tiến đến Tứ Xuyên, khiến trình độ nông nghiệp tại đây ngang bằng với thung lũng Hoàng Hà. Tần đã cho xây dựng nên hệ thống thủy lợi Đô Giang Yển vào thế kỷ thứ III TCN trên sông Dân tại Tứ Xuyên. Công trình do thái thú Thục quận Lý Băng (
Trong suốt lịch sử sau đó của Trung Quốc, tầm quan trọng về quân sự của Tứ Xuyên cũng nổi lên ngang bằng với ý nghĩa về thương mại và nông nghiệp. Bồn địa Tứ Xuyên nằm lọt giữa cao nguyên Thanh-Tạng ở phía tây, Tần Lĩnh-Mễ Thương Sơn ở phía bắc, cao nguyên Vân-Quý ở phía nam, phía đông có Tam Hiệp, dãy núi Vu Sơn, và thường có sương mù. Do Trường Giang chảy qua bồn địa và là đầu nguồn so với vùng Hoa Trung và Hoa Đông, thủy quân có thể dễ dàng từ Tứ Xuyên đi thuyền về hạ du. Do đó, Tứ Xuyên đã trở thành căn cứ của nhiều lực lượng quân sự và cũng là nơi ẩn náu lý tưởng cho những người tị nạn chính trị của các triều đại Trung Quốc.
Thời Hán
[sửa | sửa mã nguồn]Giao thời nhà Tần và Nhà Hán, Hạng Vũ đã phong cho Lưu Bang làm Hán vương, cai trị đất Hán Trung và Ba Thục. Tháng 4 năm 206 TCN, Lưu Bang trở về đất phong, được cấp 3 vạn quân. Theo lời khuyên của Trương Lương, ông đi qua đường sạn đạo xong liền đốt và cắt đứt đường sạn đạo để đề phòng quân chư hầu đánh úp, đồng thời cũng để chứng tỏ cho Hạng Vũ thấy rằng mình không có ý đi về hướng đông. Trong chiến tranh Hán-Sở, vùng Tứ Xuyên không bị ảnh hưởng trực tiếp của chiến loạn và là nơi cung cấp hậu cần trọng yếu cho việc Lưu Bang xưng đế lập nên Nhà Hán.
Thời kỳ đầu Tây Hán, tình hình xã hội, kinh tế, văn hóa của khu vực Tứ Xuyên phát triển nhanh chóng, mức thịnh vượng vượt quá vùng Quan Trung nên được gọi là "Thiên phủ chi quốc", mỹ xưng này vẫn tồn tại đến nay. Những năm Hán Cảnh Đế, Văn Ông (
Cuối thời Tây Hán, nhân lúc thiên hạ có biến loạn, năm 25, Công Tôn Thuật (
Cuối thời Đông Hán, cha con Lưu Yên đã cát cứ tại Ích châu. Ích châu bấy giờ do Khước Kiệm làm thứ sử, áp dụng chính sách thuế khoá hà khắc khiến người dân bất mãn. Lưu Yên khi đến Ích châu bèn thực hiện chính sách khoan dung, vỗ về dân chúng và tranh thủ sự ủng hộ của các quý tộc địa phương. Một số quan chức triều đình như Đổng Phù, Triệu Vĩ từ quan theo Lưu Yên vào đất Thục. Ích châu khi đó cai quản 9 quận: Thục quận, Quảng Hán, Kiến Vi, Ba quận (đông Tứ Xuyên), Việt Huề (Tứ Xuyên), Tây Khang, Tường Kha (Quý Châu), Vĩnh Xương (Vân Nam), Ích Châu (Vân Nam). Năm 194, Lưu Yên lâm bệnh và qua đời. Trưởng quan Triệu Vĩ lập Lưu Chương lên làm Ích châu mục. Ích châu tương đối yên ổn trong 20 năm thì bị Lưu Bị đánh chiếm. Lúc đó, ở Ích châu, Lưu Chương có 3 mối lo: thù với Trương Lỗ, sự đe dọa của Tào Tháo và sự chống đối của các thế lực bản địa người Thục vẫn chưa thực sự phục tùng cha con Lưu Chương.[12] Sau đó, Lưu Chương lại sai Pháp Chính sang Kinh châu mời Lưu Bị (người cùng họ) mang quân nhập Xuyên, Lưu Bị coi đây là thời cơ tốt để tiến vào Ích châu. Lưu Bị sau đó đã trở mặt tiến đánh Lưu Chương, cuối cùng chiếm được Thành Đô. Lưu Chương mở cửa thành ra hàng, được Lưu Bị đưa về an trí cùng gia quyến. Quan lại các châu quận của Ích châu đều ngả theo Lưu Bị, chỉ có Hoàng Quyền đóng cửa thành cố thủ. Mãi đến khi Lưu Chương đầu hàng, Hoàng Quyền mới ra quy thuận.
Thời Tam Quốc
[sửa | sửa mã nguồn]Năm 221, sau khi Tào Phi phế Hán Hiến Đế và xưng đế (tức Ngụy Văn Đế), Lưu Bị lên làm hoàng đế, lấy quốc hiệu là Hán với hàm ý kế tục Nhà Hán, đóng đô ở Thành Đô. Tuy nhiên sử thường gọi là nước Thục hoặc Thục Hán, ít khi gọi là nước Hán. Cương vực của Thục Hán bao trùm lên các khu vực Tứ Xuyên, Trùng Khánh, đại bộ phận Vân Nam, toàn bộ Quý Châu và một bộ phận nhỏ ở phía nam Thiểm Tây và Cam Túc. Thục Hán cùng Tào Ngụy và Đông Ngô hình thành thế đối đầu Tam Quốc. Trước đó, Đông Ngô vào năm 220 đã đánh chiếm Kinh châu và giết chết Quan Vũ; hai thủ hạ của Trương Phi là Phạm Cương và Trương Đạt đã sát hại Trương Phi rồi sau đó sang hàng Đông Ngô. Vì thế, Lưu Bị sau khi xưng đế đã quyết định thân chinh cầm quân đi đánh Đông Ngô, giao cho thừa tướng Gia Cát Lượng giúp thái tử Lưu Thiện giữ Thành Đô. Tháng 7 năm 211, Lưu Bị hạ lệnh tập trung quân ở Giang châu huyện thuộc Ba quận rồi tiến về Kinh châu. Kết quả là Thục Hán thất bại trước Đông Ngô, Lưu Bị phải lui về Bạch Đế thành rồi mất ở đó. Thất bại trong trận Di Lăng là bước ngoặt quan trọng trong lịch sử quân sự và chính trị của Thục Hán. Sức quân, sức nước của Thục Hán bộc lộ sự suy yếu rõ ràng; bản thân chính quyền tự xưng là kế thừa ngôi chính thống của nhà Đông Hán bắt đầu đi vào con đường gập ghềnh.[13]
Thái tử Lưu Thiện sau đó lên ngôi hoàng đế Thục Hán, Gia Cát Lượng vẫn làm thừa tướng và đóng một vai trò quan trọng. Tuy nhiên trong lúc này ở vùng Nam Trung xảy ra cuộc nổi loạn vũ trang ở Ích Châu quận của một số địa chủ do Ung Khải cầm đầu, những người này đã nổi dậy giết chết quan thái thú do Thục Hán bổ nhiệm. Tiếp đó xảy ra hai cuộc nổi loạn tiếp theo để hưởng ứng là cuộc khởi nghĩa ở Chu Bảo cầm đầu ở Hoàng Bình-Quý Châu và Cao Định ở Tây Xương-Tứ Xuyên. Ung Khải còn sai Mạnh Hoạch tiến hành tuyên truyền trong vùng dân tộc thiểu số ở Nam Trung. Vì thế, đích thân thừa tướng Gia Cát Lượng đã phát đích thân dẫn quân nam chinh. Sau khi giành được thắng lợi ở phương Nam, thừa tướng Gia Cát Lượng tiếp tục dẫn quân Thục thực hiện 5 cuộc Bắc phạt chống Tào Ngụy, song đã không đạt được mục tiêu chiến lược, đều phải lui binh.
Sau cái chết của Gia Cát Lượng, vị trí thừa tướng của Thục Hán lần lượt do Tưởng Uyển, Phí Vĩ và Đổng Doãn đảm nhận. Sau năm 258, triều đình Thục Hán ngày càng bị kiểm soát bởi các hoạn quan và tham nhũng tràn lan mà điển hình là Hoàng Hạo, ngoài ra, còn vì hoàng đế bất tài nhu nhược nên Thục Hán dần suy sụp. Các cuộc chiến tranh với Ngụy khiến binh lực Thục Hán dần hao mòn. Đến mùa đông năm 263, quân Ngụy chiếm được kinh đô Thành Đô của Thành Hán, hoàng đế Lưu Thiện đầu hàng.
Thời Tây Tấn
[sửa | sửa mã nguồn]Sau khi chiếm được đất Thục, nhà Tấn bắt đầu chuẩn bị xâm chiếm Đông Ngô bằng việc xây dựng hạm đội và huấn luyện thủy quân tại Tứ Xuyên dưới quyền Vương Tuấn. Năm 279, khi nhà Tấn tiến hành chiến dịch quyết định tiêu diệt Đông Ngô, các tướng Đỗ Dự, Vương Tuấn của Tấn đã chỉ huy hạm đội từ Tứ Xuyên xuôi dòng Trường Giang tới Kinh Châu. Nhà Tấn sau đó đã chia Ích châu thành ba châu là Lương châu, Ích châu và Ninh châu.[14]
Thời Thành Hán
[sửa | sửa mã nguồn]Sau loạn Bát vương, Tây Tấn suy yếu trầm trọng. Người Đê (hay Chi) vốn ở Quan Trung, vì mất mùa mấy năm, đã kéo hàng chục vạn người vào Thục kiếm sống. Nhà Tấn sai La Thượng (
Lý Thọ sau khi tiến hành binh biến và tiến về Thành Đô lật đổ Lý Kỳ, đã lên ngôi và cải quốc hiệu từ Thành sang "Hán" và lập một tông miếu mới cho cha ông là Lý Tương và mẹ, tuyệt giao với chế độ mà Lý Hùng đã gây dựng nên. Mùa xuân năm 339, Thánh Hán bị mất Ninh châu, là vùng mà Lý Thọ đã chiếm của Đông Tấn vài năm trước đó. Trong vài năm sau đó, Đông Tấn và Thành Hán tiếp tục giao chiến tại nhiều nơi ở Ninh châu. Lý Thọ cũng áp dụng hình thức cai trị khắc nghiệt và cho bắt đầu xây dựng nhiều công trình, thần dân Thành Hán phải chịu gánh nặng và điều này đã khiến họ suy giảm lòng trung thành với đất nước. Sau khi Lý Thọ chết, Lý Thế lên kế vị, đến mùa đông năm 346, tướng Lý Dịch (
Thời Đông Tấn
[sửa | sửa mã nguồn]Sau khi Thành Hán bị tiêu diệt, Tứ Xuyên được sáp nhập vào lãnh thổ Đông Tấn. Từ đó, Đông Tấn hoàn toàn kiểm soát được miền Nam Trung Quốc. Tuy nhiên, cũng thời điểm này, Hoàn Ôn bắt đầu độc lập thực tế trong việc ra các quyết định ở các châu phía tây, trong đó có vùng Tứ Xuyên. Năm 373, Tiền Tần đã tấn công, chiếm Lương châu (
Tiều Thục
[sửa | sửa mã nguồn]Vào mùa xuân năm 405, quân của Mao Cừ (
Thời Nam-Bắc triều
[sửa | sửa mã nguồn]Năm 420, Lưu Dụ đã ép Tấn Cung Đế thoái vị và nhường ngôi cho mình, lập ra triều Lưu Tống. Năm 432, dưới thời Lưu Tống Văn Đế, căm giận trước sự cai trị tồi của thứ sử Ích châu là Lưu Đạo Tế (
Sau khi Lương Vũ Đế mất, miền Nam Trung Quốc trở nên biến loạn. Sau khi Tiêu Luân chết, Thứ sử Ích châu Vũ Lăng Vương Tiêu Kỷ vốn là em thứ 8 của Tiêu Dịch lại trở thành đối tượng mà Dịch tiêu diệt. Từ năm Đại Đồng thứ 3 (537), Tiêu Kỷ được bổ nhiệm làm thứ sử Ích châu. Đến năm 552 đã trấn thủ Lương châu, Ích châu cả thảy hơn 16 năm, có trong tay 4 vạn tinh binh, 8 nghìn con ngựa. Trong thời gian Tiêu Kỷ cai quản Ích châu, kinh tế và quân đội tại đây được củng cố. Thấy Tiêu Kỷ xua quân về Đông, Tiêu Dịch liền sai sứ thần đến Tây Ngụy xin binh đánh Tiêu Kỷ. Tiêu Dịch ra lệnh cho cháu là Nghi Phong hầu Tiêu Tuân, thứ sử Lương Châu (Nam Thiểm Tây) rút khỏi thủ phủ Lương Châu là Nam Trịnh (Hán Trung, Thiểm Tây) và nhường thành Nam Trịnh cho Tây Ngụy. Tây Ngụy liền phái đại quân đánh xuống Lương Châu, chiếm được Ích châu.
Thời Tùy và Đường
[sửa | sửa mã nguồn]Năm Khai Hoàng thứ 1 (581) thời Tùy Văn Đế, Tứ Xuyên đã được nhập vào bản đồ nhà Tùy, dưới thời Tùy Đường, khu vực Tứ Xuyên có tình hình xã hội ổn định, kinh tế phát triển toàn thịnh; vào thời Trung Đường có thuyết nói là "Dương nhất, Ích nhị". Trong loạn An Sử, Đường Huyền Tông đã chạy đến đất Thục tị nạn. Sau đó, một số hoàng đế Đại Đường cũng nhập Thục tị nạn, như Đường Đức Tông trong loạn Chu Thử (
Thời Ngũ Đại Thập Quốc
[sửa | sửa mã nguồn]Năm 891, Vương Kiến được Nhà Đường phong Tây Xuyên Tiết độ sứ. Khi Nhà Đường suy yếu, ông mở rộng phạm vi quản lý của mình sang phía đông. Ông xưng đế khi Nhà Đường sụp đổ năm 907, không thần phục nhà Hậu Lương, triều đại thay thế Nhà Đường. Quốc đô Tiền Thục là Thành Đô, Tiền Thục có lãnh thổ bao gồm gần như toàn bộ tỉnh Tứ Xuyên, một phần phía nam tỉnh Cam Túc và Sơn Tây, phía tây tỉnh Hồ Bắc và toàn bộ Trùng Khánh. Đến năm 925, Hậu Đường Trang Tông đã sai tướng Quách Sùng Thao mang quân thôn tính Tiền Thục. Mạnh Tri Tường là một trong các tướng lĩnh Hậu Đường lĩnh nhiệm vụ đi chinh phục Tiền Thục. Ông được Hậu Đường Trang Tông phong làm Nam Tứ Xuyên, Thành Đô quân Tiết độ sứ, quản lý vùng đất thuộc Tiền Thục cũ. Sau khi Hậu Đường Minh Tông Lý Tự Nguyên lên ngôi vào năm 926, Mạnh Trí Tường mưu phản Hậu Đường. Hậu Đường Minh Tông bị sự đe dọa của người Khiết Đan phía bắc nên phải an trí Mạnh Tri Tường bằng cách phong ông làm Thục vương. Năm 933, Hậu Đường Minh Tông mất, nhà Hậu Đường suy yếu do mâu thuẫn nội bộ, Mạnh Tri Tường quyết chí cát cứ, tự xưng đế, chính thức lập ra nước Hậu Thục. Nước Hậu Thục kiểm soát vùng đất tương tự nước Tiền Thục trước đây, quốc đô cũng đặt ở Thành Đô. Vùng Tứ Xuyên chỉ phải chịu ảnh hưởng nhỏ của chiến loạn trong thời kỳ này, vì thế đã trở thành vùng phồn hoa nhất tại Trung Quốc lúc đó. Nước Hậu Thục bị Nhà Tống tiêu diệt vào năm 965.
Thời Nhà Tống
[sửa | sửa mã nguồn]Thời Tống Thái Tông. trên địa bàn Xuyên Hiệp Tứ lộ đã phát sinh nhiều cuộc khởi nghĩa nông dân quy mô nhỏ, như khởi nghĩa Vương Tiểu Ba (
Thời Nam Tống, Tứ Xuyên là hậu phương kháng cự quân Kim và quân Mông. Năm Thiên Hi thứ 5 (1021) thời Tống Chân Tông, tại Tứ Xuyên đã phát hành tiền giấy đầu tiên trên thế giới, gọi là "giao tử" (
Thời Nhà Nguyên
[sửa | sửa mã nguồn]Năm 1231, Đà Lôi dẫn quân tiến hành cướp phá Hán Trung, Tứ Xuyên, bắt đầu gần một nửa thế kỷ thảm sát, cướp bóc và đốt phá tại Tứ Xuyên. Sau khi quân Mông Cổ hoàn toàn chiếm lĩnh Tứ Xuyên, nhân khẩu suy giảm rõ rệt. Kinh tế và văn hóa Tứ Xuyên bị tàn phá, người dân cơ cực, quay ngược trở lại 1550 năm trước. Năm Chí Nguyên thứ 15 (1278) thời Nguyên Thế Tổ, Tứ Xuyên nhập vào bản đồ Nhà Nguyên, nhân khẩu có 15,5 vạn hộ với khoảng 77,5 vạn người. Về mặt kinh tế, Tứ Xuyên khi đó đội sổ trong số 11 hành tỉnh, song điều này chỉ kéo dài trong vài thập niên.
Thời Nhà Minh
[sửa | sửa mã nguồn]Năm Hồng Vũ thứ 4 (1371) thời Minh Thái Tổ, khu vực Tứ Xuyên được nhập vào bản đồ Nhà Minh. Sau đó, đã có các đợt di dân, đến năm Hồng Vũ thứ 26 (1393), nhân khẩu của Tứ Xuyên thừa tuyên bố chánh sứ ti đã tăng lên 1,34 triệu người. Đến năm Vạn Lịch thứ 6 (1578) thời Minh Thần Tông, nhân khẩu của khu vực Tứ Xuyên thừa tuyên bố chánh sứ ti đã tăng lên 3.102.073 người. Trong những năm này, kinh tế và văn hóa Tứ Xuyên đã khôi phục, Tứ Xuyên một lần nữa lại trở thành một trong những khu vực cường thịnh nhất nước. Tuy nhiên, từ sau những năm Vạn Lịch trở đi, Tứ Xuyên bắt đầu rơi vào trong chiến họa, triều đình Nhà Minh phải mất 10 năm để ứng phó với việc Dương Ứng Long (杨应龙) nhiều lần làm phản rồi lại hàng phục ở Bá châu tại phía nam Tứ Xuyên, cuối cùng Dương Ứng Long đã bị tiêu diệt vào năm 1600. Năm 1621, Xa Sùng Minh (
Thời Nhà Minh, đã có các công trình kiến trúc lớn được xây dựng tại Tứ Xuyên. Chùa Báo Ân (报恩
Đại Tây
[sửa | sửa mã nguồn]Quân khởi nghĩa nông dân cuối thời Minh của Trương Hiến Trung vào năm Sùng Trinh thứ 13 (1640), khi bị Tả Lương Ngọc đánh bại, đã đưa quân nhập Xuyên. Sau đó lại giao chiến với quân của Tả Lương Ngọc song lần này đã thu được chiến thắng. Trương Hiến Trung sau khi tự xưng "Đại Tây vương", kiến lập chính quyền nông dân Đại Tây tại Vũ Xương, lại tiến vào Tứ Xuyên để mưu sự lâu dài. Ngày 4 tháng 7 năm 1644, Trương Hiến Trung mệnh cho Lưu Đình Cử giữ Trùng Khánh, tự mình đưa quân đi đánh thủ phủ của Tứ Xuyên là Thành Đô. Tứ Xuyên tuần phủ Long Văn Quang từ Thuận Khánh đến chi viện Thành Đô, lại điều tổng binh Lưu Trấn Phiên đưa thổ binh vùng phụ cận đến giữ thành. Vào lúc quân Minh tập trung về Thành Đô, Trương Hiến Trung sai bộ hạ giả làm viện binh, chạy bừa vào thành, Long Văn Quang không thể phân biệt được. Ngày 7 tháng 8, nghĩa quân bốn mặt công thành, trong ứng ngoài hợp, trong ba ngày đã phá được thành. Ngày 16 tháng 11 cùng năm, Trương Hiến Trung đã xưng đế tại Thành Đô, đặt quốc hiệu là Đại Tây, đổi niên hiệu là Đại Thuận, lấy Thành Đô làm Tây kinh. Để đáp lại sự kháng cự của giới tinh hoa bản địa, Trương Hiến Trung đã cho thảm sát một lượng lớn cư dân bản địa.[19]
Không lâu sau, tướng lĩnh Nhà Minh là Tằng Anh, Lý Chiêm Xuân, Vu Đại Hải, Vương Tường, Dương Triển, Tào Huân… các nơi nối nhau tụ tập binh mã, tập kích quân đội Đại Tây, giết chết quan viên Đại Tây ở địa phương, gây ra sự uy hiếp rất lớn lên chính quyền Đại Tây. Sau khi quân Thanh nhập quan và Nam Minh diệt vong, Đại Tây phải chống lại cả tàn dư quân đội Nhà Minh và địa chủ vũ trang ở Tứ Xuyên. Đầu năm Đại Thuận thứ 3 (1646), Nhà Thanh phái Túc thân vương Hào Cách làm Tĩnh Viễn đại tướng quân và Ngô Tam Quế thống soái đại quân Mãn Hán tiến đánh quân đội nông dân Đại Tây. Tháng 7, vì muốn lên Thiểm Tây ở phía bắc nhằm chống lại quân Thanh, Trương Hiến Trung quyết định rời bỏ Thành Đô, tuy nhiên, quân khởi nghĩa đã thất bại.
Thời Nhà Thanh
[sửa | sửa mã nguồn]Sau khi Nhà Thanh nhập quan, Tứ Xuyên tiếp tục xảy ra chiến loạn, đến năm Khang Hi thứ 20 (1681) thì mới ổn định. Thời Minh mạt Thanh sơ, do hậu quả của thảm sát cũng như những năm hỗn loạn sau khi người Mãn nhập quan, dân số Tứ Xuyên lại suy giảm mạnh, cần có một lượng người nhập cư lớn từ các tỉnh khác.[20][21] Do đó, triều đình Nhà Thanh từ đời Thuận Trị đến thời Càn Long đã tiến hành vận động di dân trên quy mô lớn đến Tứ Xuyên, sử sách gọi là "Hồ Quảng điền Tứ Xuyên", kéo dài trên 100 năm. Làn sóng di dân đã bù đắp cho Tứ Xuyên một lực lượng lao động lớn, kinh tế cũng được khôi phục, vào thời trung và hậu kỳ Nhà Thanh, kinh tế tỉnh Tứ Xuyên đứng thứ tư cả nước sau Giang Tô, Chiết Giang và Quảng Đông, là một tỉnh kinh tế phát đạt.[22]
Năm Gia Khánh thứ 1 (1796), đã bùng phát đại khởi nghĩa Bạch Liên giáo Xuyên-Sở. Đầu năm 1797, quân khởi nghĩa Tương Dương chia làm 3 đạo tiến vào Tứ Xuyên. Tháng 7, quân khởi nghĩa Tứ Xuyên bị quân Thanh bao vây, quân khởi nghĩa Tương Dương đến kịp giải vây, tại Đông Hương cùng quân khởi nghĩa Tứ Xuyên hội sư. Cuộc khởi nghĩa của Bạch Liên giáo cuối cùng đã thất bại vào năm 1804.
Đến năm 1895, Lý Hồng Chương và đại diện chính phủ Nhật Bản là Ito Hirobumi đã ký kết hiệp ước Shimonoseki, trong đó quy định Trùng Khánh là một cảng thông thương hiệp ước. Từ đó, kinh tế và xã hội của Tứ Xuyên dần dần suy sụp, cũng như bị bán thực dân hóa, chủ nghĩa tư bản dân tộc cũng bắt đầu manh nha tại Tứ Xuyên. Vào những năm 1860, một tướng lĩnh của Thái Bình Thiên Quốc là Thạch Đạt Khai (
Thời Trung Hoa Dân Quốc
[sửa | sửa mã nguồn]Sau khi Nhà Thanh sụp đổ, Thành Đô tuyên bố độc lập, chính thể quân phiệt Tứ Xuyên được thành lập, Bồ Điện Tuấn (
Năm 1930, quân Tây Tạng của Đạt-lại Lạt-ma thứ 13 đã chiếm được Garzê mà không gặp phải kháng cự đáng kể nào. Năm 1932, quân Hồi của Mã Bộ Phương (
Năm 1937, chiến tranh Trung-Nhật bùng phát, Bắc Kinh, Thượng Hải, Nam Kinh và Vũ Hán đều lần lượt rơi vào tay quân Nhật. Chính quyền Quốc dân Trung Hoa Dân Quốc đã triệt thoái và tái tổ chức ở Trùng Khánh, một thành phố lớn của Tứ Xuyên lúc đó. Ngoài ra, các xí nghiệp công nghiệp và khai khoáng, học hiệu cấp cao và các đoàn thể văn hóa ở các khu vực cũng di chuyển đến Tứ Xuyên, Tứ Xuyên trở thành hậu phương lớn của Trung Quốc. Đồng thời, 3 triệu quân Tứ Xuyên đã xuất Xuyên kháng Nhật, có cống hiến lớn cho cuộc chiến kháng Nhật của Trung Quốc. Quân Nhật gặp khó khăn trong việc nhập Xuyên từ phía đông, khí hậu sương mù của vùng bồn địa đã cản trở tính chính xác trong các vụ ném bom của người Nhật.
Tháng 9 năm 1939, Tưởng Giới Thạch kiêm nhiệm chủ tịch tỉnh Tứ Xuyên, trong cùng tháng, Trùng Khánh trở thành một "viện hạt thị" (tức trực thuộc trực tiếp Hành chính viện), đến tháng sau Tưởng Giới Thạch lại thăng Trùng Khánh làm thủ đô thứ hai ("bồi đô"). Tháng 11 năm 1940, Tưởng Giới Thạch từ chức chủ tịch tỉnh Tứ Xuyên và giao cho Trương Quần kiêm nhiệm. Tháng 12 năm 1940, Trùng Khánh trở thành bồi đô vĩnh viễn, tách hoàn toàn khỏi tỉnh Tứ Xuyên. Sau năm 1946, Đặng Tích và Vương Lăng Cơ (
Thời Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa
[sửa | sửa mã nguồn]Sau khi kiểm soát được Tứ Xuyên, chính quyền mới đã thành lập các hành thự khu Xuyên Đông, Xuyên Tây, Xuyên Nam, Xuyên Bắc từ năm 1950 song đến năm 1952 thì bãi bỏ và khôi phục lại hệ thống hành chính cấp tỉnh tại Tứ Xuyên, thành lập thành phố Bắc Bội thuộc tỉnh Tứ Xuyên. Đến năm 1954, Trùng Khánh lại được sáp nhập vào Tứ Xuyên, trở thành một thành phố trực thuộc tỉnh. Đến năm 1955, chính phủ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã bãi bỏ tỉnh Tây Khang, vùng đất phía đông sông Kim Sa (thượng du Trường Giang) được nhập vào Tứ Xuyên còn vùng đất phía tây song được sáp nhập vào Tây Tạng.
Trong ba năm xảy ra nạn đói lớn (1959-1961), ngoài vùng đồng bằng Thành Đô và một vài thành thị khác là có tương đối đủ cơm ăn áo mặc, người dân Tứ Xuyên đã phải chịu một nạn đói chưa từng thấy trong lịch sử, đặc biệt là ở vùng đồi núi Xuyên Đông có dân đông và ít đất canh tác. Tổng số người chết không tự nhiên ở Tứ Xuyên là 9,4 triệu người, đứng đầu về số lượng; con số này chiếm 13,07% so với dân số tỉnh trước nạn đói (71,915 triệu), tỷ lệ này cao thứ hai chỉ sau An Huy. Nạn đói nghiêm trọng nhất là tại Đạt huyện và Trùng Khánh, số người chết đói là 6,42 triệu người, chiếm 37% tổng dân số Đạt huyện và Trùng Khánh.[33] Nạn đói cũng đã làm tổn hại đến sản xuất công nghiệp và nông nghiệp trong tỉnh, ba năm này có thể xem là một bước ngoặt của Tứ Xuyên bởi vì kể từ đó Tứ Xuyên đã không còn là một trong những khu vực phát triển nhất tại Trung Quốc (mà nó nắm giữ tuyệt đại đa số thời gian trong 2000 năm trước đó), và trở thành một tỉnh phát triển tầm trung bình.
Từ năm 1964, tỉnh Tứ Xuyên là một trong các khu vực trọng điểm của Tam tuyến kiến thiết (phát triển công nghiệp trong vùng nội địa tây nam để ứng phó với chiến tranh có thể xảy ra), trong đó Trùng Khánh và Thành Đô là trung tâm. Trùng Khánh là thành phố có lượng người nhập cư lớn nhất trong số các thành phố của Tam tuyến kiến thiết. Năm 1978, khi Đặng Tiểu Bình lên nắm quyền, Tứ Xuyên là một trong những tỉnh đầu tiên trải qua thử nghiệm hạn chế đối với các doanh nghiệp kinh tế thị trường.
Từ năm 1955 cho đến năm 1997, Tứ Xuyên là tỉnh đông dân nhất Trung Quốc, tổng dân số của tỉnh đã đạt 99.730.000 người trong cuộc điều tra nhân khẩu năm 1982.[34] Song điều này đã thay đổi vào năm 1997 khi thành phố Trùng Khánh cùng các địa cấp thị Phù Lăng, Vạn Huyện và Kiềm Giang tách khỏi Tứ Xuyên để hình thành nên thành phố Trùng Khánh trực thuộc Trung ương. Đô thị mới này được thành lập trong nỗ lực phát triển kinh tế các khu vực miền Tây của Trung Quốc, cũng như để giải quyết việc tái định cư các cư dân từ các khu vực sẽ nằm trong lòng hồ chứa của dự án đập Tam Hiệp. Năm 1997, khi chia tách, tổng dân số của Trùng Khánh và Tứ Xuyên là 114.720.000 người.[35]
Tháng 5 năm 2008, một trận động đất với cường độ 7,9/8,0 độ richter đã xảy ra cách 79 kilômét (49 mi) về phía tây bắc của Thành Đô. Theo ước tính chính thức, trận động đất đã khiến 69.188 người thiệt mạng, 374.177 người bị thương và 18.440 người mất tích, tuyệt đại đa số là tại Tứ Xuyên.[36] Tháng 11 năm 2008, chính phủ Trung ương của Trung Quốc đã tuyên bố rằng họ sẽ dành 1 nghìn tỉ NDT (khoảng 146,5 tỉ USD) trong ba năm sau đó để tái thiết các khu vực bị tàn phá do động đất.[37]
Địa lý
[sửa | sửa mã nguồn]Địa hình
[sửa | sửa mã nguồn]Tứ Xuyên nằm ở khu vực Tây Nam Trung Quốc, ở thượng du của Trường Giang, nằm sâu trong nội địa. Chiều dài đông-tây của Tứ Xuyên là 1.075 km, chiều dài bắc-nam là 921 km, diện tích trên 484 nghìn km². Khu vực tây bộ Tứ Xuyên là một bộ phận của cao nguyên Thanh-Tạng, phần lớn đông bộ Tứ Xuyên thuộc bồn địa Tứ Xuyên. Theo chiều kim đồng hồ từ phía bắc, Tứ Xuyên lần lượt giáp với Cam Túc, Thiểm Tây, Trùng Khánh, Quý Châu, Vân Nam, khu tự trị Tây Tạng và Thanh Hải.
Núi non là loại địa hình chủ yếu của Tứ Xuyên và chiếm 77,1%, tiếp đến là gò đồi (12,9%), đồng bằng (5,3%) và cao nguyên (4,7%). Tứ Xuyên có đặc điểm tây cao đông thấp một cách rõ rệt, các cao nguyên ở tây bắc và núi non ở tây nam cao trên 4.000 m so với mực nước biển, các bồn địa và gò đồi ở phía đông cao từ 1000-3000 mét so với mực nước biển. Địa hình Tứ Xuyên phức tạp và đa dạng, bao gồm bồn địa Tứ Xuyên với diện tích trên 160.000 km² (song chia sẻ với Trùng Khánh); cao nguyên Thanh-Tạng và dãy núi Hoành Đoạn ở phía tây; phía nam liền với cao nguyên Vân-Quý. Phía bắc bồn địa Tứ Xuyên là Mễ Thương Sơn (
Thủy văn
[sửa | sửa mã nguồn]Phần phía bắc châu Ngawa thuộc lưu vực Hoàng Hà, tại châu này, Hoàng Hà tạo thành một đoạn ranh giới tự nhiên giữa Tứ Xuyên và Cam Túc, tại Ngawa có hai chi lưu đáng kể của Hoàng Hà là Bạch Hà và Hắc Hà. Toàn bộ phần còn lại của Tứ Xuyên thuộc lưu vực Trường Giang. Tứ Xuyên là một trong hai tỉnh duy nhất có cả Trường Giang và Hoàng Hà chảy qua địa bàn. Trường Giang là sông lớn nhất chảy qua Tứ Xuyên, đoạn thượng du của Trường Giang gọi là sông Kim Sa, đoạn sông này cũng tạo thành toàn bộ đường ranh giới tự nhiên giữa Tứ Xuyên và khu tự trị Tây Tạng. Các chi lưu chủ yếu của Trường Giang trên địa phận Tứ Xuyên là sông Nhã Lung (dài 1.637 km), sông Dân [1.062 km, bao gồm sông Đại Độ (1.155 km) và sông Thanh Y], sông Đà (702 km), sông Gia Lăng [1.119 km, bao gồm sông Phù (700 km) và sông Cừ (720 km)], sông Xích Thủy (436,5 km). Tổng cộng, Tứ Xuyên có tới 1.400 sông lớn nhỏ, còn gọi là "tỉnh nghìn sông" (thiên hà chi tỉnh).
Tổng lượng tài nguyên nước của Tứ Xuyên ước tính đạt 348,97 tỉ m³. Lượng tài nguyên nước ngầm của Tứ Xuyên là 54,69 tỉ m³, có thể khai thác 15,5 tỉ m³. Tứ Xuyên có hơn 1.000 hồ và 200 sông băng, cũng có một diện tích đầm lầy nhất định, phân bố nhiều tại tây bắc và tây nam, tổng lượng nước của các hồ trên địa bàn là 1,5 tỉ m³, cộng với lượng nước trong các đầm lầy thì lên đến 3,5 tỉ m².[39] Các hồ nổi tiếng tại Tứ Xuyên là Cung Hải (邛海) và hồ Lô Cô (泸沽
Khí hậu
[sửa | sửa mã nguồn]Do ảnh hưởng của địa hình và gió mùa, khí hậu trong tỉnh Tứ Xuyên có sự đa dạng. Nói chung, bồn địa Tứ Xuyên ở đông bộ Tứ Xuyên có khí hậu cận nhiệt đới ẩm, song tại khu vực cao nguyên phía tây do chịu ảnh hưởng của địa hình nên khí hậu biến đối dần từ cận nhiệt đới đến cận hàn đới với các vùng đất đóng băng vĩnh cửu, trong đó khu vực tây nam có khí hậu cận nhiệt đới bán ẩm còn khu cực tây bắc có khí hậu hàn đới cao nguyên núi cao. Khu vực bồn địa Tứ Xuyên có từ 900-1600 giờ nắng mỗi năm, là khu vực có số giờ nắng thấp nhất Trung Quốc. Do điều kiện khí hậu đa dạng, Tứ Xuyên có nhiều loại đất, tài nguyên động thực vật và cảnh quan địa lý khác nhau, tạo thuận lợi cho phát triển một nền nông-lâm nghiệp và du lịch đa dạng.
Bồn địa Tứ Xuyên có nhiệt độ trung bình năm là từ 14-19 °C, cao hơn khoảng 1 °C so với các vùng cùng vĩ độ ở trung hạ du Trường Giang. Trong đó, tháng lạnh nhất là tháng 1 với nhiệt độ không khí bình quân là từ 3-8 °C, tháng nóng nhất là tháng 7 với nhiệt độ bình quân là 25-29 °C, nhiệt độ mùa xuân và mùa thu gần với nhiệt độ trung bình năm, Khu vực có bốn mùa rõ rệt, trong năm có từ 280-300 ngày không có sương giá. Vùng cao nguyên phía tây đại bộ phận có nhiệt độ trung bình năm thấp hơn 8 °C, nhiệt độ trung bình tháng 1 là khoảng -5 °C và nhiệt độ tháng 7 là từ 10-15 °C, suốt cả năm không có mùa hè, mùa đông kéo dài. Tuy nhiên, tại vùng núi tây nam Tứ Xuyên, nhiệt độ bình quân của vùng thung lũng là 15-20 °C, còn của vùng núi là 5-15 °C.
Đại bộ phận bồn địa Tứ Xuyên có lượng giáng thủy hàng năm là từ 900–1200 mm, trong đó những nơi nằm gần vùng núi bao quanh thì có lượng mưa cao hơn những nơi nằm sâu trong bồn địa, khu vực giáp núi phía tây của bồn địa có lượng mưa lớn nhất toàn tỉnh với 1.300-1.800 mm, vì thế thành phố Nhã An còn được gọi là "vũ thành", Liễu Tông Nguyên từng thuyết pháp "Thục khuyển phệ nhật" (Chó đất Thục sủa mặt trời, ý chỉ nhọc công làm điều vô ích). Theo mùa, lượng giáng thủy vào mùa đông là thấp nhất, chỉ chiếm từ 3-5% tổng lượng mưa hàng năm, mùa hè có lượng giáng thủy lớn nhất, chiếm 80% tổng lượng mưa hàng năm. Đại bộ phận vùng cao nguyên phía tây Tứ Xuyên có lượng mưa thấp, lượng giáng thủy hàng năm là từ 600–700 mm, trong đó thung lũng sông Kim Sa chỉ có 400 mm, là khu vực khô hạn nhất của tỉnh. Tại các khu vực có một mùa mưa rõ ràng, mùa này sẽ diễn ra trong thời gian từ tháng 6 đến tháng 9, lượng mưa chiếm 70-90% của cả năm; tháng 11 đến tháng 4 là mùa khô. Khu vực tây nam Tứ Xuyên có lượng giáng thủy khác biệt lớn, có một mùa mưa rõ ràng. Trong nhiều năm, lượng giáng thủy bình quân của Tứ Xuyên là 488,975 tỉ m³.[39]
Sinh vật
[sửa | sửa mã nguồn]Tỉnh Tứ Xuyên rất phong phú về tài nguyên sinh vật, có nhiều loài động thực vật quý hiếm và cổ xưa, là ngân hàng gen sinh học quý giá của Trung Quốc cũng như thế giới.
Tứ Xuyên có nhiều loài thực vật. Toàn tỉnh có gần 10.000 loài thực vật có phôi, chiếm 1/3 tổng số thực vật có phôi của cả nước và chỉ xếp thứ hai sau Vân Nam. Trong đó, có hơn 500 loài rêu, có hơn 230 họ và hơn 1.620 chi thực vật có mạch; có 708 loài dương xỉ; có hơn 100 loài thực vật hạt trần; có hơn 8.500 loài thực vật có hoa; có 87 loài tùng, sam, bách và ở vị trí đứng đầu cả nước. Tứ Xuyên có 84 loài thực vật quý hiếm nguy cấp được bảo hộ cấp quốc gia, chiếm 21,6% của cả nước. Số loài thực vật hoang dã có giá trị kinh tế là hơn 5.500 loài, trong đó số loài thực vật có thể dùng làm thuốc là hơn 4.600 loài, tổng sản lượng dược thảo Trung dược của Tứ Xuyên chiếm 1/3 và đứng đầu tại Trung Quốc. Tứ Xuyên cũng có trên 300 loài thực vật có thể dùng làm hương liệu, là địa phương sản xuất dầu thơm lớn nhất cả nước. Tứ Xuyên có nhiều loài cây có quả hoang dã, phong phú nhất là dương đào. Tứ Xuyên có tài nguyên nấm phong phú, trong hoang dã có 1.291 loài nấm, chiếm 95% của Trung Quốc. Tỷ lệ che phủ rừng của Tứ Xuyên là 31,3%, trữ lượng gỗ đứng thứ hai tại Trung Quốc.[39]
Tứ Xuyên cũng có tài nguyên động vật phong phú, toàn tỉnh có 1.246 loài động vật có xương sống, chiếm hơn 45% số loài này của Trung Quốc, các loài thú và chim chiếm 53% số các loài này của cả nước. Trong đó, có 217 loài thú, 625 loài chim, 84 loài bò sát, 90 loài lưỡng cư, 230 loài cá. Tứ Xuyên có 144 loài động vật hoang dã được bảo hộ trọng điểm cấp quốc gia, chiếm 39,6 toàn quốc, cũng xếp hạng cao nhất Trung Quốc. Năm 2011, Tứ Xuyên có khoảng 1.206 cá thể gấu trúc lớn, chiếm 76% cá thể loài này trên toàn quốc. Có hơn 50% số loài động vật tại Tứ Xuyên có giá trị về kinh tế. Tứ Xuyên có rất phong phú về trĩ, có 20 loài thuộc họ Trĩ, chiếm 40% số loài thuộc họ Trĩ tại Trung Quốc, trong đó các loài trĩ quý hiếm và được bảo hộ cấp một quốc gia như Tetraophasis obscurus, gà so Tứ Xuyên (Arborophila rufipectus), Lophophorus lhuysii.[39]
Nhân khẩu
[sửa | sửa mã nguồn]Đến cuối năm 2011, số nhân khẩu thường trú tại Tứ Xuyên là 80,5 triệu người, tăng 80.000 người so với năm trước. Trong đó, nhân khẩu đô thị là 33,67 triệu người (41,83%), nhân khẩu nông thôn là 46,83 triệu người. Trong năm này, Tứ Xuyên có 788.800 trẻ được sinh ra trong khi có 548.700 người tử vong, tỷ lệ tăng trưởng dân số tự nhiên của tỉnh là 0,298%. Cuối năm 2007, tổng nhân khẩu của Tứ Xuyên là 88,152 triệu người, trong đó nam có 45,664 triệu người và nữ có 42,488 triệu người, tỷ lệ tăng trưởng dân số tự nhiên so với năm trước là 0,29%.[40] Trong những năm gần đây, Tứ Xuyên thặng dư lao động, vì thế đã trở thành nguồn cung lao động ngoại tỉnh lớn nhất tại Trung Quốc.
Trước khi Trùng Khánh trở thành một "trực hạt thị", Tứ Xuyên là tỉnh đông dân nhất Trung Quốc. Do có số nhân khẩu lớn, số lượng người tăng trưởng tuyệt đối hàng năm của Tứ Xuyên cũng rất lớn. Từ năm 1980, khi Trung Quốc thi hành chính sách kế hoạch hóa sinh sản, tốc độ tăng trưởng nhân khẩu của Tứ Xuyên xuống thấp hơn so với trước, song phải đối mặt với tình trạng lão hóa dân số.[40] Cũng như nhiều tỉnh khác tại Trung Quốc, nhiều gia đình tại nông thôn có tư tưởng "trọng nam khinh nữ",[41] gây nên hiện tượng mất cân bằng tỷ lệ giới tính.[42]
Dân tộc
[sửa | sửa mã nguồn]Tỉnh Tứ Xuyên là nơi sinh sống của nhiều dân tộc, có mặt tất cả các dân tộc được công nhận tại Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Người Hán là dân tộc chủ yếu tại Tứ Xuyên, trong đó phân nhóm chủ thể là người Ba Thục, ngoài ra còn có người Khách Gia, người Hồ Tương. Tổng nhân khẩu của các dân tộc thiểu số vào năm 2011 là 4,22 triệu người. Có 14 dân tộc thiểu số đã sinh sống nhiều đời tại Tứ Xuyên là Di, Tạng, Khương, Miêu, Hồi, Mông Cổ, Thổ Gia, Lật Túc, Mãn, Nạp Tây, Bố Y, Bạch, Choang, Thái. Các dân tộc thiếu số có số lượng đáng kể tại Tứ Xuyên là người Di (2,12 triệu), người Tạng (1,27 triệu), người Khương (300.000), người Miêu (150.000). Các dân tộc thiểu số tại Tứ Xuyên chủ yếu cư trú tại châu tự trị dân tộc Di-Lương Sơn, châu tự trị dân tộc Tạng-Garzê, châu tự trị dân tộc Tạng và dân tộc Khương-Ngawa cùng huyện tự trị dân tộc Di-Mã Biên và huyện tự trị dân tộc Di-Nga Biên, huyện tự trị dân tộc Khương-Bắc Xuyên và huyện tự trị dân tộc Tạng-Mộc Lý.
Ngôn ngữ
[sửa | sửa mã nguồn]Ngôn ngữ thông dụng của người Tứ Xuyên được gọi là tiếng Tứ Xuyên (Tứ Xuyên thoại), thuộc nhánh Quan thoại Tây Nam của tiếng Hán. Tiếng Tứ Xuyên hiện nay có khoảng 120 triệu người sử dụng, nếu như xem nó là một ngôn ngữ độc lập, số người sử dụng tiếng Tứ Xuyên sẽ đứng ở vị trí thứ 10 thế giới, thấp hơn tiếng Nhật và cao hơn tiếng Đức. Tiếng Tứ Xuyên hiện nay hình thành từ thời kỳ vận động đại di dân "Hồ Quảng điền Tứ Xuyên" những năm Nguyên mạt Minh sơ, tiếng Ba Thục được lưu hành trước đó đã dung hợp với các phương ngôn của những di dân đến từ Hồ Quảng và Lưỡng Quảng, tiếng Tứ Xuyên có liên hệ mật thiết với tiếng Tương và tiếng Cám trong nhánh phương Nam của tiếng Hán.
Ngoài tiếng Tứ Xuyên, tại tỉnh Tứ Xuyên còn có tiếng Khách Gia (Thổ Quảng Đông) và tiếng Tương (Lão Hồ Quảng), với các đảo ngôn ngữ phân bố tại các khu vực của Tứ Xuyên. Trong đó, những người nói tiếng Thổ Quảng Đông chủ yếu tập trung tại vùng gò đồi ở vùng biên của đồng bằng Thành Đô, vùng gò đồi Xuyên Trung và vùng núi non Xuyên Bắc, với tổng cộng 1 triệu người; những người nói tiếng Lão Hồ Quảng tập trung chủ yếu tại vùng gò đồi trung thượng du sông Đà, tổng số khoảng 900.000 người.[43]
Ngoài ra, các dân tộc thiểu số tại Tứ Xuyên cũng sử dụng ngôn ngữ của mình như tiếng Di, tiếng Khương, các phương ngữ tiếng Tạng tại Tứ Xuyên là tiếng Kham và tiếng Gia Nhung (
Tôn giáo
[sửa | sửa mã nguồn]- Đạo giáo: Tứ Xuyên là vùng phát nguyên của Đạo giáo. Vào năm Hán An thứ nhất (142) thời Hán Thuận Đế, Trương Lăng vào Ba Thục, tu đạo ở núi Hạc Minh Sơn (
鶴鳴 山 , cũng gọi Cốc Minh Sơn鵠 鳴山 ), tự xưng được Thái Thượng Lão Quân truyền đạo Chính Nhất Minh Uy, nên xưng là Tam Thiên Pháp Sư Chính Nhất Chân Nhân三 天 法師 正一 真人 ; còn nói Lão Quân phong ông làm Thiên Sư, nên đạo này cũng gọi là Thiên Sư Đạo. Đạo giáo vẫn có ảnh hưởng đáng kể đối với Tứ Xuyên, điểm sinh hoạt Đạo giáo núi Thanh Thành là một di sản thế giới và cũng là một trong tứ đại danh sơn của Đạo giáo, ngoài ra còn có Thanh Dương cung tại khu vực đô thị của Thành Đô. - Phật giáo: không rõ Phật giáo đã truyền đến bồn địa Tứ Xuyên từ khi nào. Căn cứ theo các chí và ký của địa phương thì có thể suy ra là từ đời Hán, có văn tự đã chép lại việc vào năm Hưng Ninh thứ 3 (365) thời Tấn Ai Đế, có tăng nhân từ Trung Nguyên đến Tứ Xuyên, đã đóng vai trò đột phá cho sự phát triển của Phật giáo tại Tứ Xuyên.[45] Các ngôi miếu chùa Phật giáo nổi tiếng của Tứ Xuyên có Văn Thù viện (
文殊 院 ) và Đại Từ tự (大慈寺 ) và chùa Bảo Quang (宝 光 寺 ) tại Thành Đô; Báo Quốc tự (报国寺 ) và Vạn Niên tự tại Nga Mi Sơn. Nga Mi Sơn cũng là một trong tứ đại danh sơn của Phật giáo Trung Quốc. Phật giáo Tây Tạng phát triển rộng rãi ở khu vực dân tộc thiểu số ở tây bộ Tứ Xuyên. Các tu viện Phật giáo Tây Tạng tại tây bộ Tứ Xuyên là chùa Achen, chùa Anque, chùa Bongen, chùa Dargye, chùa Den, chùa Dontok, chùa Dzogchen, chùa Dzongsar, chùa Gongchen, chùa Garzê, chùa Jingang, chùa Kanze, chùa Katok, chùa Khangmar, chùa Kharnang, chùa Nanwu Si, chùa Palpung, chùa Pelyul, chùa Sershul, chùa Shechen, chùa Tongkor, chùa Tsangmotang. - Tin Lành: năm Đồng Trị thứ 7 (1868), Griffith John của Hội Truyền giáo Luân Đôn và James Aitken Wylie của Hội Truyền giáo Thế giới BMS đã tiến vào Tứ Xuyên truyền giáo. Đến tháng 10 năm 1999, Tứ Xuyên có 106 điểm sinh hoạt Tin Lành.
- Công giáo: Công giáo bắt đầu truyền bá tại Tứ Xuyên từ năm Sùng Trinh thứ 13 (1640). Khi đó, một linh mục Dòng Tên là Lodovico Buglio đã từ Bắc Kinh đến Tứ Xuyên truyền giáo.
- Hồi giáo: vào thời Đường mạt và Ngũ Đại Thập Quốc, tại Tứ Xuyên đã có người Hồi giáo sinh sống, đến thế kỷ thứ X thì tôn giáo này được truyền bá trong khu vực với quy mô lớn, thời Thanh là thời kỳ phồn vinh của Hồi giáo tại Tứ Xuyên.[46] Các tín đồ Hồi giáo tại Tứ Xuyên theo hệ phái Sunni.
Các đơn vị hành chính
[sửa | sửa mã nguồn]Tứ Xuyên có 18 thành phố (địa cấp thị) và 3 châu tự trị:
Bản đồ | # | Tên gọi | Thủ phủ | Chữ Hán Bính âm |
Dân số (2010) | Diện tích (km²) |
---|---|---|---|---|---|---|
— Thành thị cấp phó tỉnh — | ||||||
9 | Thành Đô | Thanh Dương | Chéngdū Shì |
14.047.625 | 12.121 | |
— Thành phố cấp địa khu — | ||||||
3 | Miên Dương | Phù Thành | 绵阳 Miányáng Shì |
4.613.862 | 20.249 | |
4 | Quảng Nguyên | Lợi Châu | 广元 Gǔangyúan Shì |
2.484.125 | 16.314 | |
5 | Nam Sung | Thuận Khánh | Nánchōng Shì |
6.278.622 | 12.479 | |
6 | Ba Trung | Ba Châu | Bāzhōng Shì |
3.283.771 | 12.301 | |
7 | Đạt Châu | Thông Xuyên | 达州 Dázhōu Shì |
5.468.092 | 16.600 | |
8 | Nhã An | Vũ Thành | Yǎ'ān Shì |
1.507.264 | 15.314 | |
10 | Đức Dương | Tinh Dương | Déyáng Shì |
3.615.759 | 5.954 | |
11 | Toại Ninh | Thuyền Sơn | Sùiníng Shì |
3.252.551 | 5.324 | |
12 | Quảng An | Quảng An | 广安 Guǎng'ān Shì |
3.205.476 | 6.344 | |
13 | Mi Sơn | Đông Pha | Méishān Shì |
2.950.548 | 7.186 | |
14 | Tư Dương | Nhạn Giang | 资阳 Zīyáng Shì |
3.665.064 | 7.962 | |
15 | Lạc Sơn | Thị Trung | 乐山 Lèshān Shì |
3.235.756 | 12.826 | |
16 | Nội Giang | Thị Trung | Nèijiāng Shì |
3.702.847 | 5.386 | |
17 | Tự Cống | Tự Lưu Tỉnh | Zìgòng Shì |
2.678.898 | 4.373 | |
18 | Nghi Tân | Thúy Bình | Yíbīn Shì |
4.472.001 | 13.283 | |
19 | Lô Châu | Giang Dương | 泸州 Lúzhōu Shì |
4.218.426 | 12.247 | |
21 | Phàn Chi Hoa | Đông khu | Pānzhīhūa Shì |
1.214.121 | 7.440 | |
— Châu tự trị — | ||||||
1 | Garzê (Cam Tư) của người Tạng |
Khang Định | Gānzī Zàngzú Zìzhìzhōu |
1.091.872 | 152.629 | |
2 | Ngawa (A Bá) của người Tạng & Khương) |
Barkam (Mã Nhĩ Khang) |
Ābà Zàngzú Qiāngzú Zìzhìzhōu |
898.713 | 84.242 | |
20 | Lương Sơn của người Di |
Tây Xương | 凉山 Liángshān Yízú Zìzhìzhōu |
4.532.809 | 60.423 |
Kinh tế
[sửa | sửa mã nguồn]Năm 2011, tổng GDP của Tứ Xuyên là 2.102,67 tỉ NDT, tăng trưởng 15% so với năm trước, còn thu nhập bình quân đầu người là 21.633 NDT, tăng trưởng 15,9% so với năm trước. Thu nhập có thể chi phối (sau khi đã nộp các khoản thuế và phí) của cư dân đô thị là 17.899 NDT, thu nhập thuần của cư dân nông thôn là 6.128,6 NDT, lần lượt tăng trưởng 15,8% và 20,5% so với năm trước. Cũng trong năm 2011, tỷ lệ các khu vực trong nền kinh tế Tứ Xuyên là: khu vực một đạt 298,35 tỉ NDT, tăng trưởng 4,5%; khu vực hai đạt giá trị 1.102,79 tỉ NDT, tăng trưởng 20,7%; khu vực ba đạt giá trị 701,53 tỉ NDT, tăng trưởng 10,9%. Tỷ lệ đóng góp vào tăng trưởng kinh tế của ba khu vực lần lượt là 4,3%:, 70,0% và 25,7%. Kết cấu ba khu vực kinh tế của Tứ Xuyên vào năm 2011 tương ứng là 14,2:52,4:33,4.[39]
Nông nghiệp
[sửa | sửa mã nguồn]Tứ Xuyên từ xưa đã có tiếng là "Tỉnh giàu có". Đây là một trong những nơi sản xuất nông nghiệp chính của Trung Quốc. Sản lượng ngũ cốc gồm lúa gạo và lúa mì của Tứ Xuyên đứng hàng đầu toàn Trung Quốc năm 1999. Thu hoạch từ các loại cam chanh, mía đường, khoai lang, lê và hạt cải dầu cũng đáng kể. Tứ Xuyên còn sản xuất lượng thịt lợn lớn nhất trong tất cả các tỉnh và đứng thứ nhì về sản lượng nong tằm tại Trung Quốc năm 1999.
Khoáng sản
[sửa | sửa mã nguồn]Tứ Xuyên là một tỉnh giàu tài nguyên khoáng sản. Tỉnh có hơn 132 loại khoáng sản có tiềm năng với trữ lượng của 11 loại; Trong số đó Tứ Xuyên có trữ lượng vanadium, titanium, và lithium lớn nhất Trung Quốc. Riêng tỉnh Tứ Xuyên đã có trữ lượng 13,3% quặng sắt, 93% quặng titanium, 69% vanadium, 83% cobalt của toàn quốc.
Công nghiệp
[sửa | sửa mã nguồn]Tứ Xuyên là một trong các vùng kỹ nghệ chính của Trung Quốc. Ngoài kỹ nghệ nặng như than, năng lượng, và sắt thép, tỉnh đã thiết lập được một ngành sản xuất nhẹ gồm vật liệu xây dựng, làm gỗ, thực phẩm và dệt lụa.
Thành Đô và Mân Giang là trung tâm sản xuất hàng dệt may và đồ điện tử. Đức Dương, Phàn Chi Hoa, và Nghi Tân là trung tâm sản xuất cơ khí, kỹ nghệ luyện kim và rượu (theo thứ tự). Sản lượng rượu Tứ Xuyên chiếm 21,9% tổng sản lượng toàn quốc vào năm 2000.
Công nghệ cao
[sửa | sửa mã nguồn]Những bước tiến kinh tế vĩ đại đã góp phần phát triển Tứ Xuyên nhanh chóng thành một trung tâm công nghệ cao hiện đại qua nhiều cách như khuyến khích đầu tư trong và ngoài nước trong ngành điện tử và công nghệ thông tin (như nhu liệu), máy móc và luyện kim (bao gồm xe hơi), thủy điện, dược phẩm, lương thực và giải khát. Công nghệ chế tạo xe hơi là một ngành quan trọng nắm chủ chốt của công nghệ chế tạo máy móc tại Tứ Xuyên. Đa số các công ty sản xuất xe hơi có trụ sở ở Thành Đô, Mân Giang, Nam Sung, và Lô Châu. Các ngành kỹ nghệ quan trọng khác tại Tứ Xuyên còn có kỹ nghệ không gian và quốc phòng. Một số tên lửa của Trung Quốc (tên lửa Trường Chinh) và vệ tinh nhân tạo đã được phóng từ Trung tâm phóng vệ tinh Tây Xương nằm trong thành phố Tây Xương.
Giao thông
[sửa | sửa mã nguồn]Do ảnh hưởng của địa hình, giao thông của Tứ Xuyên không có nhiều thuận lợi, người Trung Quốc có câu "Thục đạo nan" (
Đường bộ
[sửa | sửa mã nguồn]Đến cuối năm 2008, tổng chiều dài công lộ đã thông xe của Tứ Xuyên là 200.500 km, đứng đầu cả nước, song vì là tỉnh có diện tích lớn nên vẫn tụt hậu. Đến cuối năm 2007 thì Tứ Xuyên có 14.000 km đường cấp hai, năm 2008 có 2.162 km đường cao tốc. Một số tuyến đường cao tốc tại Tứ Xuyên là: Thành Đô-Trùng Khánh, Thành Đô-Miên Dương, Miên Dương-Quảng Nguyên, Thành Đô-Nam Sung, Thành Đô-Lạc Sơn, Thành Đô-Nhã An, Thành Đô-Đô Giang Yển, Thành-Ôn-Cung (quanh Thành Đô), Thành Đô-Bành Châu, vòng quanh Thành Đô, Đô Giang Yển-Mân Xuyên, Nội Giang-Nghi Tân, Nghi Tân-Thủy Phú (Vân Nam), Long Xương-Nạp Khê, Toại Ninh-Trùng Khánh, Nam Sung-Trùng Khánh (bộ phận của tuyến Lan Châu-Hải Khẩu), Nam Sung-Quảng An, Đạt Châu-Trùng Khánh, Nhã An-Tây Xương, Miên Dương-Toại Ninh, đường cao tốc Thành Miên, Thành Đô-Thập Phương-Miên Trúc. Đến cuối năm 2011, tỉnh Tứ Xuyên đã có 283.000 km công lộ, trong đó có 3.009 công lộ cao tốc, quốc lộ và tỉnh lộ là 19.700 km, công lộ nông thôn là 258.700 km. Năm 2011, hệ thống công lộ của tỉnh đã phục vụ vận chuyển được 2,426 tỉ lượt người và 1,998 tỉ tấn hàng hóa.[39]
Đường sắt
[sửa | sửa mã nguồn]Năm 2011, tổng chiều dài đường sắt đã thông tuyến của Tứ Xuyên là 3.564 km, trong năm này, mạng lưới đường sắt Tứ Xuyên đã vận chuyển được 78,6 tỉ tấn.km hàng hóa và 2.95 tỉ người.km hành khách. Tuy nhiên, mật độ đường sắt của Tứ Xuyên so với cả nước là rất thấp. Các tuyến đường sắt đi trên địa phận Tứ Xuyên là Bảo Kê-Thành Đô, Thành Đô-Trùng Khánh, Thành Đô-Côn Minh, Nội Giang-Côn Minh, Đạt Châu-Thành Đô, Toại Ninh-Trùng Khánh. Cục Đường sắt Thành Đô quản lý mạng lưới đường sắt quốc hữu và hợp doanh tại Tứ Xuyên, Trùng Khánh và Quý Châu. Một số tuyến đường khác đã và đang trong quá trình thi công là Thành Đô-Miên Dương-Lạc Sơn, Thành Đô-Trùng Khánh, Thành Đô-Lan Châu, Lan Châu-Trùng Khánh, Thành Đô-Quý Dương, Tứ Xuyên-Thanh Hải, Tứ Xuyên-Tây Tạng, Tây An-Thành Đô cùng các tuyến đường khác.[47]
Hàng không
[sửa | sửa mã nguồn]Các sân bay có các tuyến bay hành không dân dụng định kỳ tại Tứ Xuyên bao gồm Sân bay quốc tế Song Lưu Thành Đô, sân bay Cửu Trại Hoàng Long, sân bay Thanh Sơn Tây Xương, sân bay Nam Giao Miên Dương, sân bay Bảo An Doanh Phàn Chi Hoa, sân bay Thái Bá Nghi Tân, sân bay Lam Điền Lô Châu, sân bay Hà Thị Đạt Châu, sân bay Nam Bình Cao Sung, sân bay Khang Định, sân bay Bàn Long Quảng Nguyên. Năm 2009, sân bay Song Lưu Thành Đô đã sử dụng đường băng thứ hai.[48] Thành Đô cũng là thành phố có sân bay với hai đường băng thứ 4 tại Trung Quốc đại lục sau Bắc Kinh, Thượng Hải và Quảng Châu.[49] Hiện nay, tại Thành Đô có trụ sở của chi nhánh Tây Nam thuộc Air China, cùng Sichuan Airlines, và Chengdu Airlines, ba công ty này đặt sân bay căn cứ tại sân bay quốc tế Song Lưu Thành Đô. Năm 2011, Tứ Xuyên có 31 tuyến bay hàng không, trong đó có 10 tuyến bay quốc tế. Năm 2011, các sân bay của tỉnh đã phục vụ được trên 33 triệu lượt hành khách, lượng hàng hóa vận chuyển là 494.000 tấn.
Đường thủy
[sửa | sửa mã nguồn]Tứ Xuyên có cả vạn km tuyến đường thủy nội địa, trong đó các tuyến cấp 3 đến cấp 7 có tổng chiều dài 4.026 km (năm 2006). Sáu cảng sông một năm vận chuyển trên 1 triệu tấn hàng hóa, Đoạn Trường Giang tại Tứ Xuyên là tuyến thông hành cấp 3, còn các sông Gia Lăng và sông Dân được liệt là một trong 10 tuyến đường thủy cấp cao tại Trung Quốc. Tứ Xuyên cũng tiến hành quy mô hóa, chuyên sâu hóa và hiện đại hóa các cụm cảng Lô Châu-Nghi Tân-Lạc Sơn ở Xuyên Nam và Quảng An-Nam Sung-Quảng Nguyên ở Đông Bắc. Năm 2011, tổng lượng hàng hóa thông quan tại các cảng sông của Tứ Xuyên là 70,75 triệu tấn, và vận chuyển được 30,83 triệu lượt người.[39]
Đường ống
[sửa | sửa mã nguồn]Tứ Xuyên là tỉnh phát triển mạng lưới vận chuyển đường ống lớn nhất tại Trung Quốc. Tại Tứ Xuyên, mạng đường ống vận chuyển khí thiên nhiên đã được xây dựng từ năm 1243, sớm hơn gần 500 năm so với các tỉnh khác. Từ thời Tống, người dân Tứ Xuyên đã biết dùng các ống tre trúc để vận chuyển khí thiên nhiên, các đường ống dẫn khí bằng thép bắt đầu được sử dụng từ năm 1933. Từ thập niên 1950, các đường ống dẫn khí đã đưa khí thiên nhiên đến các thành thị dọc tuyến Thành Đô-Trùng Khánh. Đến đầu năm 2008, Tứ Xuyên đã có 7.000 km đường ống thu khí và 6.000 km đường ống dẫn khí, chiều dài toàn mạng lưới đường ống dẫn khí thiên nhiên của Tứ Xuyên chiếm 46% toàn Trung Quốc.
Du lịch
[sửa | sửa mã nguồn]Tứ Xuyên có tài nguyên du lịch phong phú, với cảnh quan tự nhiên đẹp, có văn hóa và lịch sử lâu dài, phong tục dân tộc độc đáo. Tài nguyên du lịch của Tứ Xuyên về cả số lượng và chất lượng đều vào hàng đứng đầu tại Trung Quốc, là một khu vực du lịch nổi tiếng của Trung Quốc. Tứ Xuyên có năm di sản thế giới, bao gồm ba di sản tự nhiên là Cửu Trại Câu, Hoàng Long, Khu bảo tồn gấu trúc Lớn; một di sản văn hóa là núi Thanh Thành-hệ thống tưới tiêu Đô Giang Yển; một di sản tự nhiên và văn hóa là Nga Mi Sơn-Lạc Sơn Đại Phật. Đến năm 2011, Tứ Xuyên có 14 điểm danh thắng phong cảnh trọng điểm cấp quốc gia, 74 điểm danh thắng phong cảnh cấp tỉnh. Thanh Thành sơn-Đô Giang Yển, Nga Mi Sơn, Cửu Trại Câu là những thắng cảnh cấp 5A tại Trung Quốc. Tứ Xuyên có 156 điểm danh lam thắng cảnh cấp A. Tổng cộng Tứ Xuyên có 166 khu bảo tồn thiên nhiên với tổng diện tích 89.100 km², chiếm 18,4% diện tích toàn tỉnh, có sáu khu bảo tồn tự nhiên loài gấu trúc lớn là Ngọa Long, Phong Dũng Trại (
Văn hoá
[sửa | sửa mã nguồn]Đền tưởng niệm Lý Bạch, được xây tại nơi sinh của ông là thị trấn Trọng Ba thuộc phía bắc huyện Giang Du trong tỉnh Tứ Xuyên, là một viện bảo tàng tưởng niệm Lý Bạch, một thi sĩ thời Nhà Đường (618-907). Nó được bắt đầu xây dựng vào năm 1962 nhân dịp lễ kỷ niệm 1.200 năm ngày ông mất, hoàn thành năm 1981 và mở cửa cho công chúng vào tháng 10 năm 1982. Đền tưởng niệm được xây theo lối kiến trúc hoa viên cổ thời Nhà Đường. Do yếu tố địa lý và xã hội nông nghiệp, khu vực Tứ Xuyên tồn tại một số "ý thức bồn địa" và "tư tưởng tiểu nông". Người xưa có câu "Tự cổ văn nhân đa nhập Thục" để nói về sự phát triển văn học của Tứ Xuyên. Xuyên kịch, Xuyên trà, Xuyên tửu, Xuyên thái (ẩm thực), Xuyên dược và Thục tú (thêu), Thục cẩm là các đặc sản đặc sắc của Tứ Xuyên.[50]
Ẩm thực Tứ Xuyên
[sửa | sửa mã nguồn]Các món ăn Tứ Xuyên có thể truy nguyên từ thời Tần Hán, đến thời Tống thì đã phát triển thành trường phái. Trường phái ẩm thực Tứ Xuyên là một trong 8 trường phái ẩm thực Trung Hoa, có đặc điểm là nhiều mùi vị và có độ nồng đậm, đặc biệt là cay do sử dụng nhiều tỏi và ớt, cũng như loại gia vị độc nhất vô nhị là tiêu Tứ Xuyên (
Giáo dục
[sửa | sửa mã nguồn]Địa phương kết nghĩa
[sửa | sửa mã nguồn]
|
|
|
Tham khảo
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ “Dân số thế giới”. https://www.worldometers.info/world-population/. Truy cập Ngày 26 tháng 9 năm 2019. Liên kết ngoài trong
|website=
(trợ giúp) - ^ “GDP thế giới năm 2018” (PDF). Ngân hàng Thế giới. Truy cập Ngày 26 tháng 9 năm 2019.
- ^ “Tái thuyết sông Trường”. Hệ thống truyền hình Trung ương nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa (CCTV). Truy cập ngày 21 tháng 11 năm 2017.
- ^ Steven F. Sage (2006). Ancient Sichuan and the Unification of China. State University of New York Press. tr. 2–3. ISBN 0-7914-1038-2.
- ^ Kinh Thư Bản văn gốc:
王 曰:「嗟!我 友邦 塚 君 御事 ,司 徒 、司 鄧、司 空 ,亞 旅 、師 氏 ,千 夫 長 、百 夫 長 ,及庸,蜀 、羌、髳、微 、盧 、彭、濮人。稱 爾 戈 ,比 爾 干 ,立 爾 矛 ,予 其誓。」 - ^ The Sanxingdui site: mystical mask on ancient Shu Kingdom. Wu Weixi, Zhu Yarong.
五 洲 传播出版 社 . 2006. tr. 7–8. ISBN 7-5085-0852-1.Quản lý CS1: khác (liên kết) - ^ Thương Cừ. “quyển 3 (
卷 三 )”. [[Hoa Dương quốc chí]] (華陽 國 志 ). tr. 90–91. Tựa đề URL chứa liên kết wiki (trợ giúp) - ^ Terry F. Kleeman (1998). Ta Chʻeng, Great Perfection - Religion and Ethnicity in a Chinese Millenial Kingdom. University of Hawaii Press. tr. 22. ISBN 0-8248-1800-8.
- ^ Terry F. Kleeman (1998). Ta Chʻeng, Great Perfection - Religion and Ethnicity in a Chinese Millenial Kingdom. University of Hawaii Press. tr. 17–19. ISBN 0-8248-1800-8.
- ^ Sanxingdui Museum & Wu Weixi, Zhu Yarong (2006). The Sanxingdui site: mystical mask on ancient Shu Kingdom.
五 洲 传播出版 社 . tr. 5–6. ISBN 7-5085-0852-1.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết) - ^ “Chuyện Tam hiệp Trường Giang”. CRI. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 12 tháng 11 năm 2012.
- ^ Dịch Trung Thiên (2010). Phẩm Tam Quốc, tập 2. Nhà xuất bản Công an nhân dân. tr. 122.
- ^ Lê Đông Phương (2007). Kể chuyện Tam Quốc. Nhà xuất bản Đà Nẵng. tr. 410.
- ^ Lịch sử Trung Quốc từ thượng cổ đến Năm đời Mười nước. Học viện quân sự cấp cao. 1992. tr. 93.
- ^ Ebrey, Walthall, Palais, (2006). East Asia: A Cultural, Social, and Political History. Boston: Houghton Mifflin Company. pg.156.
- ^ Bowman, John S. (2000). Columbia Chronologies of Asian History and Culture. New York: Columbia University Press. pg.105
- ^ Gernet, Jacques (1962). Daily Life in China on the Eve of the Mongol Invasion, 1250-1276. Stanford: Stanford University Press. ISBN 0-8047-0720-0. pg.60.
- ^ Guxi, Pan (2002). Chinese Architecture -- The Yuan and Ming Dynasties . Yale University Press. tr. 245–246. ISBN 0-300-09559-7.
- ^ “Skeletons of massacre victims uncovered at construction site”. Shanghai Star. ngày 11 tháng 4 năm 2002. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 4 năm 2006. Truy cập ngày 12 tháng 11 năm 2012.
- ^ James B. Parsons (1957). “The Culmination of a Chinese Peasant Rebellion: Chang Hsien-chung in Szechwan, 1644-46”. The Journal of Asian Studies. 16 (3): 387–400. Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 1 năm 2016. Truy cập ngày 12 tháng 11 năm 2012.
- ^ Yingcong Dai (2009). The Sichuan Frontier and Tibet: Imperial Strategy in the Early Qing. University of Washington Press. tr. 19–26. ISBN 978-0-295-98952-5.
- ^ “《
宋 元明 清 时期》”.新 华网. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 11 năm 2011. Truy cập ngày 3 tháng 5 năm 2010. - ^ Jiawei Wang, Nimajianzan (1997). The historical status of China's Tibet.
五 洲 传播出版 社 . tr. 150. ISBN 7-80113-304-8. Truy cập ngày 28 tháng 6 năm 2010. Đã định rõ hơn một tham số trong|pages=
và|page=
(trợ giúp) - ^ Hanzhang Ya, Ya Hanzhang (1991). The biographies of the Dalai Lamas. Foreign Languages Press. tr. 442. ISBN 0-8351-2266-2. Truy cập ngày 28 tháng 6 năm 2010.
- ^ B. R. Deepak (2005). India & China, 1904-2004: a century of peace and conflict. Manak Publications. tr. 82. ISBN 81-7827-112-5. Truy cập ngày 28 tháng 6 năm 2010. Đã định rõ hơn một tham số trong
|pages=
và|page=
(trợ giúp) - ^ International Association for Tibetan Studies. Seminar, Lawrence Epstein (2002). Khams pa histories: visions of people, place and authority: PIATS 2000, Tibetan studies, proceedings of the 9th Seminar of the International Association for Tibetan Studies, Leiden 2000. BRILL. tr. 66. ISBN 90-04-12423-3. Truy cập ngày 28 tháng 6 năm 2010. Đã định rõ hơn một tham số trong
|pages=
và|page=
(trợ giúp) - ^ Gray Tuttle (2005). Tibetan Buddhists in the making of modern China. Columbia University Press. tr. 172. ISBN 0-231-13446-0. Truy cập ngày 28 tháng 6 năm 2010. Đã định rõ hơn một tham số trong
|pages=
và|page=
(trợ giúp) - ^ Xiaoyuan Liu (2004). Frontier passages: ethnopolitics and the rise of Chinese communism, 1921-1945. Stanford University Press. tr. 89. ISBN 0-8047-4960-4. Truy cập ngày 28 tháng 6 năm 2010. Đã định rõ hơn một tham số trong
|pages=
và|page=
(trợ giúp) - ^ Richardson, Hugh E. (1984). Tibet and Its History. 2nd Edition, pp. 134-136. Shambhala Publications, Boston. ISBN 0-87773-376-7 (pbk).
- ^ Oriental Society of Australia (2000). The Journal of the Oriental Society of Australia, Volumes 31-34. Oriental Society of Australia. tr. 35, 37. Truy cập ngày 28 tháng 6 năm 2010.
- ^ “《
近代 四川政局和政权演变概述》”. )巴 蜀 网:民 国 历史. Truy cập ngày 1 tháng 1 năm 2010. - ^ Marks, Thomas A., Counterrevolution in China: Wang Sheng and the Kuomintang, Frank Cass (Luân Đôn: 1998), ISBN 0-7146-4700-4. Partial view on Google Books. p. 116.
- ^ 曹树
基 (2005).大 饥荒:1959 - 1961年 的 中国人 口 .香港 时代国 际出版 有限 公司 . - ^ Citypopulation.de:China
- ^ National Statistics Agency Tables:4-3 Total Population and Birth Rate, Death Rate and Natural Growth Rate by Region (1997)
- ^ “视频:汶川
地震 69188人 遇 难”.中国 央 视. Truy cập ngày 1 tháng 1 năm 2010.[liên kết hỏng] - ^ “FACTBOX-China's recent measures to spur growth”. News.alibaba.com. 6 tháng 11 năm 2008. Truy cập 2 tháng 11 năm 2009.
- ^ E. Kirby, P. W. Reiners, M. A. Krol, K. X. Whipple, K. V. Hodges, K. A. Farley, W. Tang, and Z. Chen, Eric (2002). “Late Cenozoic evolution of the eastern margin of the Tibetan Plateau”. Tectonics. 21 (1): 1001. Bibcode:2002Tecto..21a...1K. doi:10.1029/2000TC001246. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 9 năm 2012. Truy cập ngày 13 tháng 11 năm 2012.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
- ^ a b c d e f g h “
四川 ”.中央 政府 门户网站. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 12 năm 2012. Truy cập ngày 13 tháng 11 năm 2012. - ^ a b “《四川人口老龄化速度不断加快》”.
全国 老 龄工作 委 员会网. Truy cập ngày 9 tháng 5 năm 2010.[liên kết hỏng] - ^ “《
全国 婚 育 新 风总结表彰 会 发言稿 》” (bằng tiếng Trung). 四川省人口和计划生育委员会办公业务资源网. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 12 năm 2010. Truy cập ngày 9 tháng 5 năm 2010. - ^ “《
性 别失衡引发社会 问题我国 将 严打弃女婴行为》”.四川 在 线. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 11 năm 2011. Truy cập ngày 9 tháng 5 năm 2010. - ^ 严奇
岩 (2007年 第 4期 ). “《移民 与 四川 人 "打 乡谈"》”.成都 大学 学 报(社 科 版 ). Kiểm tra giá trị ngày tháng trong:|date=
(trợ giúp) - ^ China General Social Survey (CGSS) 2009, Chinese Spiritual Life Survey (CSLS) 2007. Report by: Xiuhua Wang (2015, p. 15) Lưu trữ 2015-09-25 tại Wayback Machine
- ^ “《
佛教 在 四 川 》”.四川 巴 蜀 网. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 10 năm 2007. Truy cập ngày 1 tháng 1 năm 2010. - ^ “《
伊 斯兰教 传入及发展 概 况》”.巴 蜀 文化 网. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 11 năm 2009. Truy cập ngày 16 tháng 7 năm 2009. - ^ “《
成都 铁路局 运营线路图》”.中国 铁路货物运输网. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 6 năm 2009. Truy cập ngày 1 tháng 1 năm 2010. - ^ “
成都 双 流 机 场二跑道竣工验收可 起 降 空 客 A380”. 腾讯网. ngày 16 tháng 9 năm 2009. Truy cập ngày 31 tháng 12 năm 2011. - ^ “
明年 底 前 双 流 机 场第二跑道投用成都将成为继北京、上海 、广州之 后 ,第 四个拥有第二跑道的城市”. ngày 13 tháng 11 năm 2008. Truy cập ngày 31 tháng 12 năm 2011. - ^ “《
四川 概 况-文化 地理 特 点 》”. 四川省人民政府网站. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 7 năm 2009. Truy cập ngày 14 tháng 5 năm 2009. - ^ a b Marshall Cavendish Corporation (2007). World and Its Peoples: Eastern and Southern Asia. Marshall Cavendish. tr. 126.
- ^ UNESCO (2011). “Chengdu: UNESCO City of Gastronomy”. UNESCO. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2011.
- ^ “《
美国 "常 青 之 州 "—华盛顿州》”.新 华网. Truy cập ngày 10 tháng 5 năm 2010.
Liên kết ngoài
[sửa | sửa mã nguồn]Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Tứ Xuyên. |
Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Tứ Xuyên. |
- Chính quyền tỉnh Tứ Xuyên Lưu trữ 2012-10-01 tại Wayback Machine