Công chúa
Công chúa | |||||||
![]() | |||||||
Phồn thể | |||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|
Giản thể | |||||||
| |||||||
Tên tiếng Nhật | |||||||
Kanji | |||||||
Kana | こうしゅ | ||||||
Tên tiếng Triều Tiên | |||||||
Hangul | 공주 | ||||||
Hanja | |||||||
|
Công chúa (chữ Hán:
Đối với hầu hết triều đại, tước hiệu "Công chúa" phải được chính các Hoàng đế ra sắc chỉ gia phong, làm lễ ban tước hiệu hoặc đất phong chứ không phải một danh xưng tự có. Tuy nhiên ở hai triều nhà Thanh và nhà Nguyễn, rất phổ biến trường hợp gọi tước hiệu này kèm số thứ tự, dù phải sau khi làm lễ gia phong mới có tước hiệu chính thức.
Từ nguyên[sửa | sửa mã nguồn]
Xuất xứ của từ "Công chúa" có liên hệ với việc làm chủ hôn. Sách Công Dương truyện thời Chiến Quốc có chép:「"Thiên tử gả con gái cho chư hầu, tất phải do chư hầu cùng họ làm chủ hôn"」[1]. Sách Sự vật khởi nguyên bổ túc thêm:「"Thiên tử gả con gái, từ Tần Hán đến nay, đều do Tam Công làm chủ, nên gọi Công chủ"」[2]. Từ ["Chủ";
Trong lịch sử, tước hiệu Công chúa chỉ dùng ở các quốc gia ảnh hưởng văn minh Trung Hoa là Trung Quốc, Việt Nam, Nhật Bản và Triều Tiên. Tại những quốc gia này, tước hiệu Công chúa hầu hết là phong hiệu của các Hoàng nữ hoặc Vương nữ, nên trong các tài liệu Trung Quốc và Việt Nam, từ Công chúa hiện diện với nghĩa phổ biến để chỉ con gái của các quân chủ.
Trong nhiều trường hợp chuyển ngữ cho các tước hiệu nữ giới khác, dựa trên các tài liệu tiếng Anh, những phụ nữ được chú kèm tước hiệu Princess cũng được chuyển ngữ thành tước hiệu Công chúa. Điều này dẫn đến sự nhầm lẫn trong một số trường hợp các tước hiệu như trường hợp con gái của Tướng quân Nhật Bản, do ảnh hưởng của tiếng Anh khi dịch từ Hime (
Phong hiệu[sửa | sửa mã nguồn]
Tước hiệu "Công chúa" do chỉ là tước hiệu để gia phong, cho nên tùy theo địa phương hoặc triều đại có thể mang những ý nghĩa khác nhau. Thời kỳ cổ đại, tước hiệu này thường chỉ phong cho các Hoàng nữ, nhưng trong một số trường hợp đặc biệt thì các phụ nữ quý tộc không phải là Hoàng nữ, thậm chí thuộc tầng lớp thấp hơn, do tài năng hoặc công tích đặc biệt mà cũng được Hoàng đế phá lệ phong tước. Trong các điển tịch Trung Quốc, từ "Công chúa" thường được giản xưng là "Chủ" (
- Theo tên tiểu quốc: như Ninh Quốc công chúa, Hoắc Quốc công chúa, Kỳ Quốc công chúa, Trấn Quốc công chúa,...
- Theo tên quận: như Tân Thành công chúa, Trường Lạc công chúa, Bình Nguyên công chúa, Bình Dương công chúa,...
- Theo mỹ tự: như Văn Thành công chúa, An Lạc công chúa, Thái Bình công chúa,...
Các phong hiệu công chúa không nhất thiết cố định mà có thể được thay đổi. Như trường hợp Thăng Bình công chúa sau được phong là Tề Quốc công chúa. Thời nhà Tống, các công chúa khi vừa sinh ra là có danh hiệu theo lối mỹ tự, sau khi gả chồng thì được đổi từ mỹ tự thành tên tiểu quốc. Sang các đời Minh, Thanh thì lại đơn thuần là mỹ tự.
Cá biệt vào thời Hán, phong hiệu của công chúa có dùng theo họ mẹ. Phần "Nhị niên pháp lệnh" (
Lịch sử danh hiệu[sửa | sửa mã nguồn]
Tiên Tần và Lưỡng Hán[sửa | sửa mã nguồn]
Trước thời Chu, hệ thống giai tầng xã hội chưa hoàn bị, các xưng hiệu chưa rõ ràng. Đến đời Chu thiên tử, các vị Thiên tử xưng Vương, vốn họ Cơ, vì vậy con gái Chu vương được gọi là Vương Cơ (
Sang đầu thời Tây Hán, chế độ sách phong, tấn phong và đãi ngộ cho con gái và cháu gái Hoàng đế được hình thành. Theo đó, các Hoàng nữ xưng là Công chúa, con gái các Vương (gọi là Vương nữ) thì xưng là Ông chúa hoặc Vương chúa (
Khi Vương Mãng lên ngôi và lập ra nhà Tân, bởi vì không muốn dấu tích nhà Hán còn hiện hữu nên đã phế bỏ nhiều thể chế triều Hán, bao gồm cả tước hiệu "Công chúa" cho Hoàng nữ mà đổi thành tước hiệu Thất chúa (
Ngụy Tấn đến Nam Bắc triều[sửa | sửa mã nguồn]
![](https://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/thumb/7/7e/%E6%A8%82%E6%98%8C%E5%85%AC%E4%B8%BB2.jpg/200px-%E6%A8%82%E6%98%8C%E5%85%AC%E4%B8%BB2.jpg)
Thời Tam Quốc, chiến tranh loạn lạc, sử liệu thất lạc, cuốn Tam quốc chí của Trần Thọ vốn dĩ chỉ ghi thông tin nhân vật, tuyệt nhiên không có điển chế hay hiến chương, vì thế chỉ có thể phỏng đoán thể chế phong hiệu các Công chúa vẫn phỏng theo nhà Hán.
Triều đình Tào Ngụy vẫn dùng phong hiệu và quy tắc cũ thời Hán; ví dụ như Đông Hương công chúa (
Sang đến đời Nhà Tấn, Đế nữ được phong hiệu theo quận tên quận, tức là Quận công chúa, gọi tắt là Quận chúa, phong hiệu các Vương nữ gọi là Huyện chúa. Lúc này "Huyện chúa" đã là danh xưng cố định, không được dùng xưng hiệu "Huyện công chúa" nữa[10].
Thời Nam-Bắc triều, Công chúa là tước hiệu dành cho Hoàng nữ, tuy nhiên trên thực tế vẫn được phong cho các nữ giới khác trong dòng tông thất, như Lang Tà công chúa (琅邪
Đường, Tống đến Minh[sửa | sửa mã nguồn]
![](https://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/thumb/3/30/Princess_Wencheng.jpg/220px-Princess_Wencheng.jpg)
Thời Nhà Đường, tước hiệu Công chúa, ngoài các Hoàng nữ, còn được phong cho các nữ nhân trong Tông Thất, thậm chí các con gái của các Phò mã hoặc của các đại thần cũng được phong tước hiệu Công chúa, đó như là một danh hiệu phong tặng không còn bị gò bó chỉ dành cho Hoàng nữ. Đây dường như là do nhà Đường áp dụng chính sách Hòa thân, dùng tước Công chúa để nâng địa vị của những người được chọn để gả cho các Phiên vương - đa phần là được chọn từ các con gái Tông Thất vậy[11].
Các bậc Công chúa cũng quy định rõ[12][13][14], mà về sau là căn bản cho các triều đại tiếp theo:
- Hoàng cô, tức cô ruột của Hoàng đế, phong là Đại Trưởng công chúa (
大長 公主 ), trật Chính nhất phẩm; - Hoàng tỷ muội, tức chị em gái Hoàng đế, phong là Trưởng công chúa (
長 公主 ), trật Chính nhất phẩm; - Hoàng nữ, tức con gái Hoàng đế, phong là Công chúa (
公主 ), trật Chính nhất phẩm; - Con gái Hoàng thái tử phong là Quận chúa (
郡 主 ), trật Tòng nhất phẩm; - Con gái Thân vương phong là Huyện chúa (
縣 主 ), trật Chính nhị phẩm (Tân Đường thư ghi Tòng);
Tuy nhiên, trừ trường hợp được phong hiệu Công chúa chính thức, từ bậc Quận chúa trở xuống không được xưng hiệu là "Quận công chúa", "Huyện công chúa" như các đời trước. Thời Đường cũng bắt đầu chuộng việc gia phong vị hiệu Công chúa theo tên Tiểu quốc, với trường hợp đầu tiên là Đại Quốc công chúa (
Thời Tống, ngoài áp dụng phong hiệu từ thời Đường, còn bổ sung thêm bậc Lưỡng Quốc Đại Trưởng công chúa (
Sử liệu không ghi rõ nhà Liêu quy định tước hiệu Công chúa như thế nào. Các con gái Hoàng đế Liêu có thể được ghi dưới cả danh hiệu Công chúa, Quận chúa và Huyện chúa, thậm chí có chuyện CÔng chúa giáng phong Quận chúa hay Huyện chúa. Nhà Kim quy định rõ hơn, Hoàng nữ được phong "Công chúa", Vương nữ được phong "Huyện chúa". Tước "Công chúa" tuy được quy định là tên huyện, có khoảng 30 tên[16], nhưng trong Kim sử xuất hiện rất nhiều Công chúa vẫn là 「"X Quốc công chúa"」 như các đời Đường và Tống trước đó[17]. Tuy phong hiệu của Huyện chúa cũng được lấy tên huyện để gia phong, nhưng bậc Huyện chúa không được xem như là "Huyện công chúa"[18]. Đến nhà Nguyên thì các Hoàng nữ, Vương nữ đều xưng là Công chúa[19], tên gọi có theo kiểu tên Quốc hoặc là phiên âm chữ Hán của tên Mông Cổ.
Sang thời đại nhà Minh, theo điển chế mà Minh sử quy định[20]:
- Hoàng cô phong là Đại Trưởng công chúa (
大長 公主 ); - Hoàng tỷ muội phong là Trưởng công chúa (
長 公主 ); - Hoàng nữ phong là Công chúa (
公主 ); - Con gái Thân vương phong là Quận chúa (
郡 主 ); - Con gái Quận vương phong là Huyện chúa (
縣 主 ); - Tôn nữ của Vương đều phong là Quận quân (
郡 君 ); - Tằng tôn nữ của Vương đều phong là Huyện quân (
縣 君 ); - Huyền tôn nữ của Vương đều phong là Hương quân (
鄉 君 );
Lúc này các Hoàng nữ cùng Tông nữ đều không hưởng theo trật phẩm, mà có định lệ riêng. Các tước Công chúa khi sách phong đều nhận Kim sách, lộc 2.000 thạch, chồng được gia phong Phò mã Đô úy. Từ Quận chúa trở xuống ăn lộc 800 thạch giảm dần, khi sách phong không nhận Kim sách, chỉ nhận Cáo phong, chồng đều gia phong Nghi tân.
Mãn Thanh[sửa | sửa mã nguồn]
Thời Hậu Kim, khi Nỗ Nhĩ Cáp Xích khai quốc, triều nghi còn đơn giản, các con gái và cháu gái Đại hãn đều xưng là Cách cách (chữ Mãn: ᡤᡝᡤᡝ, Gégé,
Sau khi quân Thanh chiếm được Trung Quốc, năm Thuận Trị thứ 17 (1660), nhà Thanh ra chế định thứ bậc phong hiệu của các Hoàng nữ như sau:
- Cố Luân công chúa (
固 倫 公主 ): ban cho con gái do Hoàng hậu sinh ra. Chữ 「Cố Luân」 có nghĩa là "thiên hạ" trong tiếng Mãn. - Hòa Thạc công chúa (
和 碩 公主 ): ban cho con gái do các Phi tần sinh ra. Chữ 「Hòa Thạc」 có nghĩa là "bốn phương bốn mặt" trong tiếng Mãn.
![](https://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/thumb/7/7e/%E8%8D%A3%E5%AF%BF%E5%9B%BA%E4%BC%A6%E5%85%AC%E4%B8%BB%E6%97%97%E8%A3%85%E7%85%A7.jpg/235px-%E8%8D%A3%E5%AF%BF%E5%9B%BA%E4%BC%A6%E5%85%AC%E4%B8%BB%E6%97%97%E8%A3%85%E7%85%A7.jpg)
Đối với các Tông thất nữ quyến, lại phân thành các bậc:
- Quận chúa (
郡 主 ): thường được ban cho con gái các Thân vương; - Huyện chúa (县主): thường được ban cho con gái của Thế tử, Quận vương;
- Quận quân (
郡 君 ): thường được ban cho con gái của Bối lặc; - Huyện quân (县君): thường được ban cho con gái của Bối tử;
- Hương quân (
鄉 君 ): thường được ban cho con gái của Phụng ân Trấn quốc công và Phụng ân Phụ quốc công. Con gái hàng "Bất nhập bát phân" và dưới nữa thì không phong tước mà đều chỉ xưng Tông nữ (宗 女 )[21];
Trên thực tế, vẫn có những trường hợp được nâng bậc lên mà không phải xét đến xuất thân đã định sẵng. Ví dụ như Cố Luân Hòa Hiếu Công chúa vốn là con của Đôn phi Uông thị, đáng lẽ nên chỉ là bậc ["Hòa Thạc công chúa"], nhưng do được Càn Long Đế yêu quý mà vẫn phá lệ nâng lên bậc ["Cố Luân công chúa"], hưởng lương bổng và đãi ngộ cũng y hệt như vậy. Hoặc như có rất nhiều người chỉ là con gái Thân vương vẫn được phong làm "Công chúa" dưới danh nghĩa con gái nuôi (Dưỡng nữ;
Căn cứ theo ý chỉ năm Thuận Trị thứ 17 thì điều này đã có quy định từ lâu:「"Tông Thất nữ từ nhỏ được nuôi trong cung, khi hạ giá cũng gọi Hòa Thạc công chúa"; 如中
Các quốc gia đồng văn[sửa | sửa mã nguồn]
Nhật Bản[sửa | sửa mã nguồn]
Mặc dù chịu ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa, nhưng trong lịch sử Nhật Bản và Lưu Cầu lại không sử dụng tước hiệu Công chúa.
Từ thời Heian, sau khi áp dụng "Luật lệnh" thì ngoài việc con gái của Thiên hoàng được xưng làm Hoàng nữ, thì khi đến thời điểm thích hợp họ đều được phong tước hiệu Nội thân vương (
Tuy nhiên, xưng hiệu "Công chúa" (được phiên âm Nhật thành Kōshu) đôi khi vẫn được các Hoàng nữ và Nội thân vương sử dụng như một Đường danh (
Tại Vương quốc Lưu Cầu, do vốn là một phiên quốc của triều Minh và triều Thanh của Trung Quốc, con gái của các Quốc vương Lưu Cầu chỉ sử dụng tước cao nhất là Ông chúa, không sử dụng đến tước hiệu Công chúa.
Triều Tiên[sửa | sửa mã nguồn]
Trong tài liệu tiếng Triều Tiên hiện đại, tước hiệu "Công chúa" được viết là [공주] và được phiên âm thành Gongju hoặc Kongchu. Chịu ảnh hưởng văn hóa Hán từ sớm, trong lịch sử, danh hiệu này được ghi nhận đầu tiên từ đầu thời Tam Quốc, như Lạc Lãng công chúa (낙랑공주) của nước Lạc Lãng, Bình Cương công chúa (평강공주) của Cao Câu Ly hay Thiện Hoa công chúa (선화공주) của Tân La. Sử liệu cũng ghi nhận các vị Vương nữ của Vương quốc Tân La được phong các tước hiệu "Công chúa", ngoài ra còn có Trạch chúa (택주) hoặc Điện chúa (전주). Tuy nhiên, sau khi kết hôn, các Vương nữ đều xưng là Phu nhân.
Vào thời đại nhà Triều Tiên Lý thị, do phân biệt địa vị Đích-thứ mà các Vương nữ do Vương phi sinh ra được gọi thành Đích nữ (嫡女) và được phong làm Công chúa, như Trinh Minh Công chúa - con gái của Triều Tiên Tuyên Tổ. Còn con gái do Hậu cung ngự thiếp sinh ra đều được phong tước hiệu Ông chúa. Trong lịch sử Triều Tiên, chỉ duy nhất một vị vương nữ không phải Vương phi sinh ra, nhưng vẫn là Công chúa, chính là Nghĩa Thuận công chúa (의순공주), người được phái đi với thân phận Hòa thân, làm một Thứ Chính thất của Duệ Trung Thân vương Đa Nhĩ Cổn[note 2].
Việt Nam[sửa | sửa mã nguồn]
Trong lịch sử Việt Nam, phong hiệu Công chúa chưa được nghiên cứu tường tận và không có tư liệu lịch sử rõ ràng. Theo Đại Việt sử ký toàn thư, ở thời kì Hùng Vương và Âu Lạc, Vương nữ được gọi là Mị Nương (
Sau khi thiết lập triều đình theo thể chế Trung Hoa, các triều đại Ngô, Đinh, Tiền Lê, đều ghi nhận điển lễ về việc phong các Hoàng nữ tước hiệu "Công chúa", như Phất Kim công chúa của nhà Đinh hoặc Phất Ngân công chúa của nhà Tiền Lê. Sang thời đại nhà Lý, khi chế độ đủ đầy phỏng theo chế độ Trung Hoa, phong hiệu phần nhiều đều phỏng theo chế độ nhà Đường và nhà Tống, thì ở Việt Nam có các bậc: Trưởng công chúa cùng Công chúa, cá biệt trên bậc Trưởng công chúa thì lại có bậc Thái trưởng công chúa (
Ngoài ra, lịch sử các triều đại Việt Nam ghi nhận một số lượng đáng kể danh hiệu công chúa được xưng tụng cho các nữ giới được thờ phụng như những vị thần, như Đông Triều công chúa (lịch sử) hay Liễu Hạnh công chúa (thần thoại)...
- Một số công chúa hoàng gia nổi bật trong lịch sử Việt Nam
- Phất Kim công chúa, con út của Đinh Tiên Hoàng, gả cho Ngô Nhật Khánh, bị Ngô Nhật Khánh rạch mặt.
- Phất Ngân công chúa, theo truyền thuyết là con của Lê Đại Hành và Đại Thắng Minh Hoàng hậu, sau trở thành vợ của Lý Thái Tổ và là mẹ của Lý Thái Tông.
- Thiên Cực công chúa, tông thất nhà Lý, vợ quan Nội hầu Vương Thượng, có liên quan tới cái chết của hai quyền thần nhà Lý là Phạm Du và Tô Trung Từ.
- Thiên Cực công chúa, tông thất nhà Trần, là Hoàng hậu và Thái hậu cuối cùng của nhà Lý, sau giáng xuống làm Công chúa, gả cho Trần Thủ Độ.
- Chiêu Thánh công chúa, con gái thứ hai của Lý Huệ Tông. Sau trở thành Nữ hoàng, rồi trở thành Hoàng hậu đầu tiên của nhà Trần.
- Thiên Thành công chúa, con gái Trần Thái Tông, vợ Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn.
- An Tư công chúa, con gái của Trần Thái Tông, bị đưa đi làm vợ Thoát Hoan.
- Huyền Trân công chúa, con gái út của Trần Nhân Tông.
- Mai Hoa công chúa, con gái của Lê Anh Tông, chị của Lê Thế Tông. Từng làm nhiếp chính trên danh nghĩa cho giai đoạn này, là một người theo Công giáo.
- Ngọc Hân công chúa, con gái lớn của Lê Hiển Tông, sau thành Thứ hậu của Quang Trung.
- Ngọc Bình công chúa, con gái út của Lê Hiển Tông, sau thành Chính hậu của Quang Toản, cuối cùng thành Tam phi của Gia Long.
- Quy Đức công chúa, còn gọi Nguyệt Đình, con gái của Minh Mạng, đứng đầu Tam Khanh thời nhà Nguyễn.
- Lại Đức công chúa, còn gọi Mai Am, con gái của Minh Mạng, người thứ 2 trong Tam Khanh thời Nguyễn.
- Thuận Lễ công chúa, còn gọi Huệ Phố, con gái của Minh Mạng, người út trong Tam Khanh thời nhà Nguyễn.
- Các danh nhân lịch sử được xưng tụng danh hiệu công chúa
- Đông Triều công chúa, tức Lê Chân, nữ tướng thời Hai Bà Trưng.
- Quản Trưởng quốc khố công chúa, tên gọi Lý Thị Châu, có công thời nhà Trần đánh đuổi quân Mông Cổ.
- Các nhân vật thần thoại dân gian được xưng tụng danh hiệu công chúa
- Liễu Hạnh Công chúa, hay Thánh mẫu Liễu Hạnh, một trong bốn vị thánh Tứ bất tử của Việt Nam.
Trong văn hóa Châu Âu[sửa | sửa mã nguồn]
Khái niệm[sửa | sửa mã nguồn]
Các tài liệu Việt ngữ, khi chuyển ngữ danh xưng tương đương 「Princess」 trong tiếng Anh là 「Công chúa」. Trên thực tế, chúng chỉ có một phần ý nghĩa tương đương.
Trong các ngôn ngữ châu Âu, danh xưng tương đương "Princess" đều là dạng nữ (giống cái), có nguồn gốc từ danh xưng Princeps (dạng nữ: Principissa) trong tiếng Latin, có nghĩa là "Người đầu tiên, quan trọng nhất, cao quý nhất"[24][25]. Danh hiệu "Princeps" này có nguồn gốc từ thời Cộng hòa La Mã, khi mà những thành viên hàng đầu của Viện nguyên lão La Mã sẽ được chỉ định là Princeps senatus (số nhiều: Principes Senatus), những người có quyền ưu tiên được phát biểu đầu tiên trong các cuộc tranh luận tại Viện Nguyên lão[26]. Đến thời kỳ Augustus, ông tiếp tục sử dụng dạng biến thể 「Principatus」 như một tước hiệu không chính thức cho ngôi vị Hoàng đế La Mã của bản thân thay thế cho các danh hiệu 「Rex」 hay 「Dictator」 để tranh xung đột với Viện Nguyên lão[27]. Ông cũng đồng thời chỉ định tước hiệu 「Princeps iuventutis」, có nghĩa "Người đầu tiên trong số những người trẻ tuổi", ám chỉ đến những người kế vị đủ tư cách của ông để phong cho các cháu mình là Gaius và Lucius[28]. Những người kế vị này sẽ được trao các lãnh địa được gọi là 「"Principatus"; tạm dịch "Thân vương quốc"」 để thực hành cai trị trước khi kế vị cai trị cả Đế chế. Danh hiệu này được người Visigoth tiếp tục sử dụng. Tiếp đó trong Chế độ quân chủ Visigoth, vị quân chủ ("Rex") được bầu cử lên bởi các Princeps, những lãnh chúa cai trị các lãnh địa Thân vương quốc có quyền bầu cử. Truyền thống này được kế thừa bởi Đế quốc La Mã Thần thánh, khi mà các Tuyển đế hầu ("Princeps Elector") bầu ra Hoàng đế (Imperator) của Đế quốc.
Mặc dù không có truyền thống 「"Trọng nam khinh nữ"」 nghiêm trọng như ở Châu Á, trên thực tế hiếm có các nữ giới mang tư cách "Principissa" có đủ chủ quyền như nam giới. Một số ít trường hợp ghi nhận như Constance Hauteville cai trị Thân vương quốc Antioch (Principatus Antiochenus) vào thế kỷ XII với tư cách một nữ chủ. Vì vậy, hầu hết các "Principissa" đều được biết với danh nghĩa con cháu của Quân chủ (tức Hoàng nữ hay Vương nữ), hoặc người phối ngẫu của các Princeps (tương ứng với Vương phi). Nhiều tài liệu tiếng Việt thường không phân biệt rõ giữa hai chuyện này mà chuyển ngữ tất cả thành 「Công chúa」.
- Danh xưng Principissa trong các ngôn ngữ châu Âu khác
- Tiếng Anh: Princess;
- Tiếng Pháp: Princesse;
- Tiếng Tây Ban Nha: Princesa;
- Tiếng Ý: Principessa;
- Tiếng Đức: Prinzessin;
- Tiếng Nga: Принцесса;
Khác biệt "By blood" và "By marriage"[sửa | sửa mã nguồn]
Trong tiếng Anh, danh vị tương đương của Công chúa là 「Princess」, tuy nhiên tước vị này cũng vừa để gọi con gái Quân chủ, vừa dùng để gọi hôn phối của "Prince", được dịch đại khái thành Vương tử phi, Vương tức hay Vương phi. Hai dạng này được tiếng Anh gọi phân biệt là 「Princess by blood」 đế nói đến các "Princess" ngay từ khi sinh ra đã là con cháu Vua chúa (tức Công chúa, Quận chúa), và 「Princess by marriage」 để nói đến các "Princess" thông qua hôn nhân (tức Vương phi, Vương tức, Phu nhân).
Vào thời gian đầu, con gái của Quân chủ nước Anh khi chưa thành hôn chỉ được gọi theo kiểu 「Lady + Tên Thánh」, như Mary I của Anh cùng Elizabeth I của Anh ban đầu chỉ được gọi là 「Lady Mary」 và 「Lady Elizabeth」 mà thôi[29]. Sau thời George I của Anh, chế độ Vương thất Anh mới bắt đầu dùng "Princess" như một biệt xưng để gọi các con gái hoặc cháu gái của Quân chủ, kèm theo tôn xưng Royal Highness và Highness để xác nhận địa vị của thành viên vương thất. Trước đó, tước vị "Princess" trong thời gian dài thường để gọi vợ của một Prince hơn, ví dụ Princess of Wales là vợ của Thân vương xứ Wales vậy[30]. Vương thất Anh từ thời Charles I của Anh bắt đầu thiết lập danh hiệu 「Princess Royal」 để phong cho con gái lớn nhất trong gia đình[31], danh vị này tương đương với Trưởng công chúa - nếu xét vào ý nghĩa lúc đầu thời Tây Hán. Đối với các gia đình hoàng gia cai trị một Đế quốc, như nhà Habsburg của Đế quốc Áo và nhà Romanov của Đế quốc Nga, họ đều thiết lập các tước vị riêng cho con gái quân chủ, là "Archduchess" của hoàng gia Habsburg và "Velikaya Knyagnya" (Великая Княгиня) của hoàng gia Romanov.
Trong tiếng Anh, bởi vì "Princess" cũng là tước hiệu dùng để chỉ các người vợ của một vị "Prince", thậm chí trong tình huống phức tạp hơn thì nó trở thành một tước hiệu quý tộc độc lập như Vương phi xứ Wales, tức 「Princess of Wales」 hay Vương phi xứ Monaco, tức 「Princess of Monaco」. Và để tránh lẫn lộn, ở hầu hết các nền quân chủ ảnh hưởng tiếng Anh, các vị "Princess by marriage" sẽ không có tiền tố "Princess" ở đằng trước tên Thánh, họ sẽ được gọi thẳng theo thể "nữ hóa" tước vị quý tộc của chồng mình. Nếu trong trường hợp vị "Prince" ấy không có tước hiệu quý tộc, thì người vợ sẽ được gọi theo tên của chồng. Nếu như "Prince" trở thành tước vị độc lập (như Thân vương xứ Wales), thì bắt buộc phải gọi kèm theo tên lãnh địa mà tước vị ấy sở hữu.
- Trường hợp gọi theo tước hiệu quý tộc
- Vợ của Prince William là Catherine Middleton, cho đến khi chồng trở thành Thân vương xứ Wales được gọi chính thức là 「Her Royal Highness The Duchess of Cambridge」, trong trường hợp cần cụ thể hơn thì được gọi theo tên Thánh kèm tước hiệu nữ hóa của chồng, tức là 「Catherine, Duchess of Cambridge」.
- Vợ của Prince Harry là Meghan Markle, được gọi chính thức là 「Her Royal Highness The Duchess of Sussex」, trong trường hợp cần cụ thể hơn thì được gọi theo tên Thánh kèm tước hiệu nữ hóa của chồng, tức là 「Meghan, Duchess of Sussex」. Từ đầu năm 2020, hai vợ chồng Sussex không được dùng kính xưng "Royal Highness" với tư cách là thành viên vương thất thay mặt Nữ vương, dù họ vẫn được giữ khi xưng hô chính thức.
- Trường hợp gọi theo tên của chồng
- Mẹ chồng của Nữ vương Elizabeth II là Alice xứ Battenberg. Bà kết hôn với Prince Andreas của Hy Lạp và Đan Mạch trong khi Prince Andreas không có tước vị quý tộc, nên bà được gọi là 「Her Royal Highness Princess Andrew of Greece and Denmark」.
- Cháu dâu của Cố Quốc vương George V của Anh là Marie Christine von Reibnitz. Bà kết hôn với Prince Michael xứ Kent trong khi Prince Michael không có tước vị quý tộc, nên bà được gọi là 「Her Royal Highness Princess Michael of Kent」.
- Trường hợp "Princess" là vợ của một Prince độc lập
- Mẹ chồng của Catherine là Lady Diana trong thời gian còn hôn phối với Prince Charles cũng được gọi là 「Her Royal Highness The Princess of Wales」. Sau khi ly hôn, vì bà Diana đã sinh ra người kế vị nên vương thất vẫn giữ tước vị "Princess of Wales" của bà, nhưng lại bỏ đi 「Her Royal Highness」, một kính xưng biểu thị Diana thuộc vương thất. Do đó, Diana trở thành 「Diana, Princess of Wales」. Rất nhiều báo đài quốc tế gọi thẳng bà là "Princess Diana" khiến bà trông như một Vương nữ thuộc vương thất. Bản thân Catherine Middleton, khi chồng là Prince William trở thành Thân vương xứ Wales, bà cũng được gọi là 「Her Royal Highness The Princess of Wales」.
- Vị cố Vương phi Grace Kelly, trong thời gian kết hôn với Rainier III, Thân vương xứ Monaco thì đã được gọi là 「Her Serene Highness The Princess of Monaco」. Đây là bởi vì tước vị "Prince" của Monaco lưu truyền độc lập, không phải trong hệ thống tước vị của một Vương quốc, họ chỉ dùng kính xưng Serene Highness. Cũng như Lady Diana, rất nhiều báo đài quốc tế gọi bà là "Princess Grace" hay "Princess Grace of Monaco", những cách gọi này không đúng bởi vì một Thân vương nữ của Monaco cũng gọi tương tự như vậy, nếu cả Vương phi cũng như vậy thì rất dễ nhầm lẫn. Con gái của Vương phi Grace là Princess Stéphanie chính là ví dụ cho chuyện này.
- Con gái của Cố phi Grace Kelly là Caroline, Vương phi Hannover, sau khi kết hôn với Ernst, Thân vương xứ Hannover thì được xưng họ kính xưng "Royal Highness" truyền thống nhà Hannover nên có danh xưng chính thức 「Her Royal Highness The Princess of Hanover」. Trước đó khi còn giữ tư cách con gái của Thân vương Rainier III xứ Monaco, Caroline được gọi là 「Her Serene Highness Princess Caroline of Monaco」.
Có thể thấy những "Princess by marriage" trong cách gọi chính thức đều không được gọi tên riêng mà mình vốn cố, cho dù có thì cũng không có "Princes" đi trước tên Thánh. Những người vẫn được sử dụng "Princess" thông thường là do bản thân người đó sinh ra đã là con gái Vua chúa của vương triều ngoại quốc. Trường hợp này có Marina, Bà Công tước xứ Kent khi con trai bà cưới vợ. Lúc này bà đã là 「"Bà Công tước góa phụ của Prince George, Công tước xứ Kent"」, nhưng bà vẫn tiếp tục sử dụng tước vị "The Duchess of Kent" dù chồng đã qua đời. Sau khi con trai bà cưới vợ, bà không thể xưng như vậy nữa, nhưng bà vẫn không muốn thêm thành tố biểu thị tình trạng góa phụ là "Dowager" vào tước hiệu của mình, nên cuối cùng Marina đã hỏi Nữ vương Elizabeth II cho phép mình dùng kính xưng "Princess" trước tên Thánh kèm tước hiệu. Bởi vì bản thân bà Marina là "Vương tôn nữ" thuộc vương thất Hy Lạp - Đan Mạch, nên Nữ vương đã đồng ý. Thế là bà Marina được biết đến là 「Her Royal Highness Princess Marina, Duchess of Kent」.
Xem thêm[sửa | sửa mã nguồn]
Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]
- ^ Nguyên văn:「
己 酉 ,同 昌 公主 薨,追贈 衛 國 公主 ,謚曰文 懿。」 - ^ Lúc này triều Thanh còn áp dụng Đa thê chế, Nghĩa Thuận công chúa là một trong nhiều người Vợ hợp pháp khi ấy của Đa Nhĩ Cổn.
- ^ Chữ Hán chuẩn là Thang mộc ấp (
湯 沐邑), nghĩa cổ là "Đất tắm gội", sau dùng để chỉ đất đai riêng mà một người được Vua chúa ban cho, và từ đất đai ấy có thể sử dụng theo quyền hạn mình có thể đạt được thuế hoặc vật chất của riêng.
Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]
- ^ 《
公 羊 传》記載 “天子 嫁女 於诸侯 ,必使諸侯 同姓 者 主 之 ” - ^ 《
事物 纪原》:春秋 指 掌 碎玉曰:天子 嫁女 ,秦 汉以来 ,使 三 公主 之 ,故 呼 公主 也。” - ^
王子 今 (2004年 1月 20日 ). “张家山 汉简《秩律》四 "公主 "说” (bằng tiếng Trung).中国 秦 汉史研究 会 网站. Bản gốc lưu trữ 2014年 5月 12日 . Truy cập ngày 11 tháng 5 năm 2014. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong:|date=
và|archive-date=
(trợ giúp) - ^ 《
漢書 卷 六 十 五 東方 朔 傳 第 三 十 五 》:初 ,帝 姑 館 陶 公主 號 竇太主 ,堂 邑侯陳 午 尚之 。 - ^ Tư trị thông giám, quyển 7, phần Nhị Thế hoàng đế nguyên niên: 「......於是
公子 十 二 人 僇死咸陽市 ,十 公主 矺死於杜......」 - ^
唐 六 典 -卷 02:「......漢 家 公主 所 食 曰邑;諸 王女 曰翁主 ,亦 曰王主 ......」 - ^ 《
后 汉书·皇后 纪》载:汉制,皇女 皆 封 县公主 ,仪服同 列侯 。其尊崇 者 ,加 号 长公主 ,仪服同 蕃 王 - ^ Hán thư, quyển 99 hạ, truyện Vương Mãng.
- ^ 《
後 漢書 皇后 纪第十 下 》:“漢 制 :皇女 皆 封 縣 公主 ,儀 服 同 列侯 。其尊崇 者 加 號 長 公主 ,儀 服 同 蕃 王 。” - ^ 《
唐 六 典 卷 02》:「......晉 、宋 已 來 ,皇女 皆 封 郡 公主 ,王女 皆 封 縣 主 。......」 - ^ Đường hội yếu, quyển Lục, Hòa phiên Công chúa.
- ^ Cựu Đường thư, quyển 43, Chức quan nhị:「凡外
命婦 之 制 ,皇 之 姑 ,封 大長 公主 ,皇 姊妹,封 長 公主 ,皇女 ,封 公主 ,皆 視 正 一品 。皇太子 之 女 ,封 郡 主 ,視 從 一 品 。王 之 女 ,封 縣 主 ,視 正 二 品 。」 - ^ Thông điển, Chức quan thập tam: 「
太子 女 為 郡 主 ,封 郡 ,視 從 一 品 。親 王女 為 縣 主 ,封 縣 ,視 正 二 品 。」 - ^ Tân Đường thư, quyển 46, Chí 36: Bách quan nhất - Lại bộ: 「
皇 姑 為 大長 公主 ,正 一品 ;姊妹為 長 公主 ,女 為 公主 ,皆 視 一品 ;皇太子 女 為 郡 主 ,從 一 品 ;親 王女 為 縣 主 ,從 二 品 。」. - ^ 《
鐵 圍山 叢 談 卷一 》:「國 朝 帝 女 封 號 ,皆 沿習漢 唐 。初 封 則 有美 號 稱 「公主 」,出 降 則 封 「某國 公主 」,兄弟 又 封 「某 國長 公主 」,姑 又 封 「某國 大長 公主 」,祖 姑 則 封 「兩國 大長 公主 」;而皇族 則 稱 「某 郡 主 」、「某 縣 主 」。熙、豐間 ,嘗議以乖義理 ,然 終 不 克 改作 。政和 三 年 ,上 又 惡 其不典 。或 欲 追 述 ,號 公主 為 「帝 嬴」、郡 縣 主 宜 為 「宗 嬴」,乃合於前代 矣。上 曰:「此議雖近古 ,特 不 合 時宜 」。因 諭 大臣 曰:「姬 雖周姓 ,後世 亦 以為婦人 之 美稱 ,蓋 不 獨 為 姓 也,在 我 而已。」魯公於榻前 忽 力 爭 ,上 愕然 ,詢其所以 。魯公謂 :「臣 乃姬姓 也,懼有嫌 ,使 小人 得 以議爾 。」上 笑 而不從 ,乃降手 詔 ,引熙寧 欲 厘 革 ,而有司 不 克 奉 承 ,以至今日 。周 稱 王 姬 見 於《詩 》《雅 》。姬 雖周姓 ,考古 立 制 ,宜 莫如周 。今 帝 天下 而以主 封 臣 ,可 改 公主 為 「帝 姬 」、郡 主 為 「宗 姬 」、縣 主 為 「族 姬 」;其稱大長 者 ,可 並 依 舊 為 「大長 帝 姬 」,仍以美名 二 字 易 其國號 ,內兩國 者 以四 字 。於是魯公退 而具書 於《時政 記 》。當 是 時 ,執政 者 皆 嘆息 魯公傷 弓 ,故 慮 患之深 也。是 後 因 又 改 郡 縣 君 號 為 七 等 ;郡 君 等 ,為 淑人 、碩 人 、令 人 、恭 人 ;縣 君 者 ,室 人 、安 人 、孺人。俄 又 避太室 人 之 目 ,因 又 改 曰宜人 。其制今 猶 存 。」 - ^ Kim sử, quyển 55, Chí 36: Bách quan Nhất: 「
封 公主 之 縣 號 三 十 :樂 安 、清 平 、蓬 萊、榮 安 、棲霞、壽 光 、靈仙 、壽 陽 、鐘 秀 、惠和 、永 寧 、慶 雲 、靜 樂 、福山 、隆平 、德平 、文 安 、福 昌 、順安 、樂 壽 、靜 安 、靈 壽 、大 寧 、聞喜、秀 容 、宜 芳 、真 寧 、嘉 祥 、金 鄉 、華原 。 」 - ^ Kim sử, quyển 7, Thế Tông trung:
至 是 ,皇 姑 梁 國 公主 請赦之 。上 謂 宰 臣 曰:「公主 婦人 ,不 識典法 ,罪 尚 可 恕 。毛 得 請託 至 此,豈 可 貸 宥 ?」不 許 。 - ^ Kim sử, quyển 63, Liệt truyện 1: [Hậu] - phi thượng:「
壽 寧 縣 主 什古,宋 王 宗 望 女 也。靜 樂 縣 主 蒲 刺 及習撚,梁 王 宗 弼女也」 - ^ Tân Nguyên sử, quyển 105:「
元 制 ,皇女 及諸王女 皆 稱 公主 」 - ^ Minh sử, quyển 121, Liệt truyện 9 - Công chúa: 「
明 制 ,皇 姑 曰大長 公主 ,皇 姊妹曰長公主 ,皇女 曰公主 ,俱授金 冊 ,祿 二 千 石 ,婿 曰駙馬 都 尉 。親 王女 曰郡主 ,郡 王女 曰縣主 ,孫 女 曰郡君 ,曾孫 女 曰縣君 ,玄孫 女 曰鄉君 ,婿 皆 儀 賓 。」 - ^ 《
清史 稿 卷 114》:「公主 之 等 二 :曰固倫 公主 ,曰和碩 公主 。格 格 之 等 五 :曰郡主 ,曰縣主 ,曰郡君 ,曰縣君 ,曰鄉君 。不入 五 等 曰宗女 。」 - ^ Sách Trung cung tự Thiên Thọ Quốc tú trướng chép:「
多 至 波 菜 等 已 比 乃弥己 等 (用 明天 皇 )、庶妹、名 を孔 部 間 人 公主 、娶 りて大 后 と為 す……尾 治 大王 之 女 、名 を多 至 波 奈大女郎 、娶 りて后 となす…」 - ^ Sách Đại Đông thế ngữ chép:「
弘 仁 中 。有 才 學 。」 - ^ Simpson, D.P. (1968). Cassell's Latin Dictionary, Latin-English, English-Latin. London: Cassell Publishers Limited. tr. 713. ISBN 9780826453785.
- ^ Charlton T. Lewis, Charles Short (1897). “princeps, cĭpis, adj”. A Latin Dictionary. Truy cập ngày 21 tháng 4 năm 2009.
- ^ Encyclopædia Britannica – Princeps
- ^ A History of Rome to A.D. 565, rev. 6th ed., Sinnigen & Boak, PanMacMillan, ç1975
- ^ Theo Suetonius.
- ^ Camden, William (1688). The History of the Most Renowned and Victorious Princess Elizabeth Late Queen of England (4th ed.). London, UK: M. Flesher. p. 5.
- ^ Given-Wilson, Chris, ed. (2010). Fourteenth Century England. VI. Woodbridge, UK: The Boydell Press. p. 131.
- ^ “Royal Titles: Style and Title of the Princess Royal”. The British Monarchy. 25 tháng 6 năm 2024. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 7 năm 2008. Truy cập ngày 8 tháng 7 năm 2014.Quản lý CS1: URL hỏng (liên kết)