Chữ Hán
Chữ Hán | |
---|---|
Thể loại | |
Thời kỳ | Khoảng năm 1300 TCN đến ngày nay |
Hướng viết | Trái sang phải, vertical right-to-left |
Các ngôn ngữ | Văn ngôn (nguyên gốc) Tiếng Trung Tiếng Nhật Tiếng Triều Tiên Tiếng Lưu Tiếng Tráng Tiếng Việt |
Hệ chữ viết liên quan | |
Nguồn gốc | (Chữ viết nguyên thủy)
|
Hậu duệ | Kana, Hangul, Chữ Nôm, Nữ thư, Chữ Tây Hạ, Chữ Khiết Đan, Chữ vuông tộc Choang, Chữ Nữ Chân, Chú âm phù hiệu |
ISO 15924 | |
ISO 15924 | Trường |
Chữ Hán, còn gọi là Hán tự, Hán văn[cần dẫn nguồn], chữ nho, là loại văn tự ngữ tố - âm tiết ra đời ở Trung Quốc vào thiên niên kỷ thứ hai trước Công nguyên. Ngôn ngữ đầu tiên được viết bằng chữ Hán là tiếng Hán thượng cổ, một ngôn ngữ cổ đã tuyệt diệt. Tiếng Hán thượng cổ viết bằng chữ Hán thường không được ghi lại ở hình thức đầy đủ của nó như khi nói mà ở dạng giản lược về ngữ pháp và từ vựng. Sự giản lược này dần dần sẽ sản sinh ra văn ngôn, một dạng ngôn ngữ viết truyền thống của tiếng Hán. Theo thời gian, đã có thêm nhiều ngôn ngữ được viết bằng chữ Hán, bao gồm hầu hết các ngôn ngữ là con cháu của tiếng Hán thượng cổ như tiếng Hán trung cổ, Hán ngữ tiêu chuẩn, tiếng Quảng Đông, tiếng Mân Nam, vân vân, và nhiều ngôn ngữ khác ở Đông Á như tiếng Việt, tiếng Nhật, tiếng Triều Tiên, tiếng Tày, vân vân.
Tên gọi
[sửa | sửa mã nguồn]Tại Trung Quốc thời cổ đại, ở trong tiếng Hán không có tên gọi nào chỉ riêng chữ Hán được đông đảo người nói tiếng Hán biết đến. Người nói tiếng Hán thường chỉ dùng những từ ngữ có nghĩa là chữ, chữ viết để chỉ chữ Hán.[1]
Trong các thư tịch tiếng Hán được viết trước thời nhà Tần còn lưu truyền được đến ngày nay có các từ sau để chỉ văn tự:[2]
名 “danh”書 “thư”文 “văn”字 “tự”
Từ
Từ
Từ
Từ
Sang đến thời nhà Tần, tiếng Hán có thêm một từ khác để chỉ chữ viết là từ
Từ thời nhà Tần cho đến trước thời cận đại, trong tiếng Hán, văn tự thường được gọi là
Tên gọi thông dụng hiện nay - “Hán tự” (
Lịch sử
[sửa | sửa mã nguồn]Theo truyền thuyết thì Hoàng Đế là người sáng tạo ra văn tự Trung Hoa từ 4-5 ngàn năm trước nhưng ngày nay không còn ai tin rằng Hoàng Đế là nhân vật có thật nữa. Cả thuyết Thương Hiệt cho chữ mà các học giả thời Chiến Quốc đưa ra cũng không thuyết phục vì không ai biết Thương Hiệt ở đời nào. Gần đây người ta đào được ở An Dương (Hà Nam) nhiều mu rùa, xương loài vật, và đồ đồng trên đó có khắc chữ, và các nhà khảo cổ phỏng đoán rằng chữ viết ở Trung Hoa ra đời muộn nhất là vào thời kỳ nhà Thương, khoảng 1800 năm trước Công nguyên.[cần dẫn nguồn]
Phân loại cấu tạo chữ Hán theo Lục Thư
[sửa | sửa mã nguồn]Phần này không có nguồn tham khảo nào. |
Chữ Hán được hình thành theo các cách chính:
- Chữ tượng hình (
象形 文字 ): "Tượng hình" có nghĩa là căn cứ trên hình tượng của sự vật mà hình thành chữ viết. Các chữ này rất dễ nhận biết và đơn giản. VD:日 nhật (mặt trời),月 nguyệt (mặt trăng),木 mộc (cái cây),龜 quy (con rùa), - Chữ chỉ sự (
指事 文字 ) hay chữ Biểu Ý (表意 文字 ): Cùng với sự phát triển của con người, chữ Hán đã được phát triển lên một bước cao hơn để đáp ứng đủ nhu cầu diễn tả những sự việc đó là chữ chỉ sự. Ví dụ, để tạo nên chữ Bản (本 ), diễn đạt nghĩa "gốc rễ của cây" thì người ta dùng chữ Mộc(木) và thêm gạch ngang ở dưới diễn tả ý nghĩa "ở đây là gốc rễ" và chữ Bản (本 ) được hình thành. Chữ Thượng (上 ), chữ Hạ (下 ) và chữ Thiên (天 ) cũng là những chữ chỉ sự được hình thành theo cách tương tự. - Chữ hội ý (
會意 文字 ): Để tăng thêm chữ Hán, cho đến nay người ta có nhiều phương pháp tạo nhiều chữ mới có ý nghĩa mới. Ví dụ, chữ Lâm (林 , rừng nơi có nhiều cây) có hai chữ Mộc(木) xếp hàng đứng cạnh nhau được làm bằng cách ghép hai chữ Mộc với nhau (Rừng thì có nhiều cây). Chữ Sâm (森 , rừng rậm nơi có rất nhiều cây) được tạo thành bằng cách ghép ba chữ Mộc. Còn chữ Minh (鳴 , kêu, hót) được hình thành bằng cách ghép chữ Điểu (鳥 , con chim) bên cạnh chữ Khẩu (口 , mồm); chữ Thủ (取 , cầm, nắm) được hình thành bằng cách ghép chữ Nhĩ (耳 , tai) của động vật với tay (chữ Thủ手 , chữ Hựu又 ). - Chữ hình thanh (
形聲 文字 ): Cùng với những chữ tượng hình, chỉ sự và hội ý, có nhiều phương pháp tạo nên chữ Hán, nhưng có thể nói là đa số các chữ Hán được hình thành bằng phương pháp hình thanh, gọi là chữ hình thanh (形聲 文字 ). Chữ hình thanh chiếm tới 80% toàn bộ chữ Hán. Chữ hình thanh là những chữ được cấu tạo bởi hai thành phần: nghĩa phù có tác dụng gợi ý, và thanh phù có tác dụng gợi âm. Ví dụ, chữ Vị味 (nghĩa: mùi vị) có nghĩa phù là bộ thủ khẩu口 chỉ việc liên quan đến ăn hoặc nói, còn thanh phù là chữ Vị未 (nghĩa: chưa, ví dụ: vị thành niên). Lối tạo chữ hình thanh của chữ Vị味 cho ta biết chữ này mang ý nghĩa liên quan tới việc ăn/nói và có âm đọc tương tự như Vị未 . Chữ Vị味 còn có một âm xưa là Mùi (nghĩa của nó không gì khác hơn, cũng là mùi). Thanh phù Vị未 ngày trước cũng mang âm mùi và âm này vẫn còn hiện diện trong cách gọi địa chi thứ tám, tương ứng với con dê, trong ngôn ngữ hiện đại của tiếng Việt. Như vậy, gắn với âm xưa, bằng lối tạo chữ hình thanh, chữ Mùi味 cũng được diễn giải là nghĩa phù Khẩu口 có tác dụng gợi nghĩa, nói lên sự ăn uống và thanh phù Mùi未 thể hiện cách đọc chữ này. - Chữ chuyển chú (
轉注 文字 ): Các chữ Hán được hình thành bằng bốn phương pháp kể trên, nhưng còn có những chữ có thêm những ý nghĩa khác biệt, và được sử dụng trong những nghĩa hoàn toàn khác biệt đó. Ví dụ, chữ Dược (藥 ), có nguồn gốc là từ chữ Nhạc (樂 ), âm nhạc làm cho lòng người cảm thấy sung sướng phấn khởi nên chữ Nhạc (樂 ) cũng có âm là Lạc nghĩa là vui vẻ. Chữ Dược (藥 ) được tạo thành bằng cách ghép thêm bộ Thảo (có nghĩa là cây cỏ) vào chữ Lạc (樂 ). - Chữ giả tá (
假借 文字 ): Là những chữ được hình thành theo phương pháp bằng cách mượn chữ có cùng cách phát âm.
Bốn cách tạo chữ (Tượng hình, Chỉ sự, Hội ý, Hình thanh) và hai cách sử dụng chữ (Chuyển chú, Giả tá) được gọi chung là Lục Thư (
Bộ thủ
[sửa | sửa mã nguồn]Chữ Hán có đến hàng ngàn chữ nhưng được phân loại thành 214 bộ chữ, mỗi bộ chữ được đại diện bằng một thành phần cấu tạo chung gọi là bộ thủ, dựa theo số nét.
Tuy nhiên số bộ thủ không phải bất biến mà có sự thay đổi theo thời gian. Số bộ thủ nói trên là dạng chữ phồn thể, dựa theo Khang Hi tự điển (1716) và các từ điển thông dụng sau này như Trung Hoa đại tự điển (1915), Từ hải (1936).[15]
Trước đó, trong Thuyết văn giải tự của Hứa Thận (thời Đông Hán) có 9350 chữ phân làm 540 bộ thủ. Tự lâm của Lã Thầm (đời Tấn) và Loại biên của Vương Chu và Tư Mã Quang (đời Tống) cũng có 540 bộ thủ. Ngọc thiên của Cố Dã Vương đời Lương có 542 bộ thủ. Với việc giản thể hóa chữ Hán, vì phải thêm các bộ thủ giản thể nên số bộ thủ tăng lên thành 227 bộ. Tuy nhiên, một số cách ghép bộ thủ đã làm giảm số bộ thủ, chẳng hạn Tân Hoa tự điển có 189 bộ thủ, Hiện đại Hán ngữ từ điển có 188 bộ thủ, Hán ngữ đại từ điển có 200 bộ thủ. Riêng cuốn Từ nguyên xuất bản năm 1979 có tới 243 bộ thủ.
Chữ Hán và việc phân biệt từ đồng âm khác nghĩa
[sửa | sửa mã nguồn]Chữ Hán khắc phục sự hiểu sai nghĩa do đồng âm khác nghĩa: ví dụ như từ Hán-Việt "vũ" có các chữ Hán là 宇(trong "vũ trụ"),
"...Nhược điểm của chữ Quốc ngữ không phải ở chỗ nó chưa thật là một hệ thống phiên âm âm vị học, mà chính là ở chỗ nó có tính chất thuần tuý ghi âm, và hoàn toàn bất lực trước nhiệm vụ biểu hiện nghĩa mà lẽ ra nó phải đảm đương, và nhược điểm ấy lộ rõ nhất và tai hại nhất là trong các từ đồng âm vốn có rất nhiều trong tiếng Việt...Bỏ chữ Hán và chữ Nôm là một tai hoạ không còn hoán cải được nữa, nhưng ta có thể bổ cứu cho sự mất mát này bằng cách dạy chữ Hán như một môn học bắt buộc ở trường phổ thông..."
— Tiếng Việt - Văn Việt - Người Việt. Nhà xuất bản Trẻ. 2001, bài "Mấy nhận xét về chữ Quốc ngữ", Giáo sư Cao Xuân Hạo
Việc sử dụng chữ Hán ở các nước
[sửa | sửa mã nguồn]Phần này không có nguồn tham khảo nào. |
Trung Quốc đại lục, Hồng Kông, Ma Cao, Đài Loan
[sửa | sửa mã nguồn]Chữ Hán bắt nguồn từ Trung Quốc từ thời xa xưa dựa trên việc quan sát đồ vật xung quanh và vẽ thành dạng chữ tượng hình, chữ mang ý nghĩa. Chữ Hán đã trải qua nhiều thời kỳ phát triển. Cho tới hiện nay, chữ Hán cổ nhất được cho là loại chữ Giáp Cốt (Giáp cốt văn
Chữ Giáp Cốt tiếp tục được phát triển qua các thời:
- Nhà Chu
周 (1021-256 TCN) có chữ Kim (Kim văn金文 ), là chữ viết trên các chuông bằng đồng và kim loại - Chiến Quốc
戰國 (403-221 TCN) và thời nhà Tần秦 (221-206 TCN) có chữ Triện (Triện thư篆書 ) và có chữ Lệ (Lệ thư隸書 ) - Nhà Hán
漢 (Tiền Hán 206 TCN-8 CN, Hậu Hán 25-220) có chữ Khải (Khải thư楷書 )
Ngoài ra còn có chữ Hành thư (
Giáp cốt văn → Kim văn → Triện thư → Lệ thư → Thảo thư → Khải thư → Hành thư
Ngày nay tại Trung Quốc đại lục, bộ chữ giản thể (简体
Việt Nam
[sửa | sửa mã nguồn]Có ý kiến cho rằng chữ Hán đã hiện diện ở Việt Nam từ trước Công nguyên, dựa trên suy diễn về dấu khắc được coi là chữ trên một con dao găm [22]. Tuy nhiên đó là lúc chữ Hán chưa hình thành và chưa có tư liệu xác định vào thời kỳ trước Công nguyên cư dân Việt cổ đã sử dụng chữ.
Từ đầu công nguyên đến thế kỷ X, Việt Nam chịu sự đô hộ của phong kiến Trung Hoa, chữ Hán và tiếng Hán được giới quan lại cai trị áp đặt sử dụng. Theo Đào Duy Anh thì nước Việt bắt đầu có Hán học khi viên Thái thú Sĩ Nhiếp (137 - 226) đã dạy dân Việt thi thư. Trong khoảng thời gian hơn một ngàn năm, hầu hết các bài văn khắc trên tấm bia đều bằng chữ Hán.
Nước Nam Việt được Triệu Đà thành lập vào thế kỷ thứ III TCN, khi nhà Tần đang thống nhất chữ viết (vào thời chiến quốc, mỗi nước phát triển chữ viết khác nhau). Hơn một thế kỷ sau, khi Lưu Bang lật đổ nhà Tần lập nhà Hán, nhà Hán mới thôn tính được Nam Việt (khoảng năm 111 TCN). Cổ vật trong lăng mộ của Hán Văn Đế cho thấy chữ viết của Nam Việt khá hoàn chỉnh [cần dẫn nguồn]. Sau này, nhà sử học Lê Mạnh Thát phát hiện rằng ngay cả Hán thư cũng dùng phương ngôn của người Việt.
Trong suốt thời gian Bắc thuộc đó, với chính sách Hán hóa của nhà Hán, tiếng Hán đã được giảng dạy ở Việt Nam và người Việt đã chấp nhận ngôn ngữ mới đó song song với tiếng Việt, tiếng nói truyền miệng. Tuy người Việt Nam tiếp thu tiếng Hán và chữ Hán nhưng cũng đã Việt hóa nhiều từ của tiếng Hán thành từ Hán-Việt. Từ đó đã có rất nhiều từ Hán-Việt đi vào trong từ vựng của tiếng Việt. Sự phát triển của tiếng Hán ở Việt Nam trong thời kỳ Bắc thuộc song song với sự phát triển của tiếng Hán ở chính Trung Quốc thời đó. Tuy nhiên, năm 938, sau chiến thắng Bạch Đằng của Ngô Quyền, người Việt đã độc lập và không còn lệ thuộc vào phương Bắc nữa, nhưng ngôn ngữ vẫn còn đậm ảnh hưởng của tiếng Hán. Sang thời kỳ tự chủ chữ Hán giữ địa vị là văn tự chính thức nhưng cách đọc đã phát triển theo hướng riêng, khác với sự phát triển tiếng Hán ở Trung Quốc.
Trong quá trình đó chữ Hán vẫn được người Việt dùng và phát triển thêm nhưng cách phát âm chữ Hán lại bị chi phối bởi cách phát âm của người Việt, tạo ra và củng cố dần âm Hán-Việt. Do nhu cầu phát triển, người Việt đã sử dụng chữ Hán để tạo ra chữ viết riêng, tức chữ Nôm. Trong khi đó cổ văn Hán vẫn được coi là mẫu mực để noi theo.[23]
Mặc dù hiện nay rất ít được sử dụng ở Việt Nam, nhưng chữ Hán cùng với chữ Nôm vẫn là dạng kí tự quan trọng với tiếng Việt bởi tác dụng biểu thị nghĩa cho từ ngữ (khi mà chữ Quốc Ngữ chỉ có tác dụng biểu thị âm) do vấn đề đồng âm khác nghĩa, nghĩa của từ bị sai lệch (đặc biệt là hiểu nhầm ý nghĩa của tên người hoặc tên địa danh).[20] Các di chỉ lịch sử thời xưa bằng chữ Hán và chữ Nôm vẫn được bảo tồn. Người Việt đôi khi dùng chữ Hán-Nôm trong một số dịp như viết thư pháp, xin chữ ngày tết hay dán chữ 囍 - "song hỉ" ở nhà và tiệc khi có lễ cưới và vẫn thường xuyên được dùng trong các nghi lễ tôn giáo.
Hiến pháp 2013 tại Chương I Điều 5 Mục 3 quy định: "Ngôn ngữ quốc gia là tiếng Việt. Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc, phát huy phong tục, tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của mình", do vậy không có luật lệ hay quyền hành nào cấm người Việt hiện nay viết tiếng Việt bằng chữ Hán và chữ Nôm như người Việt xưa.
Triều Tiên, Hàn Quốc
[sửa | sửa mã nguồn]Hán ngữ được du nhập vào bán đảo Triều Tiên khá lâu, khoảng thời kỳ đồ sắt. Đến thế kỷ thứ IV trước Công Nguyên, xuất hiện các văn bản viết tay của người Triều Tiên. Các bản viết tay này được sử dụng chữ Hán. Tiếng Hán là thứ ngôn ngữ khó, dùng chữ Hán để viết tiếng Triều Tiên trở nên phức tạp, cho nên các học giả người Triều Tiên đã tìm cách cải biến chữ Hán để phù hợp với âm đọc của tiếng Triều Tiên. Vào khoảng thế kỷ thứ XV, ở Triều Tiên xuất hiện chữ ký âm, được gọi là Hangul (한글) hay Chosŏn'gŭl (조선글), chữ này trải qua nhiều thế kỷ phát triển thăng trầm, cuối cùng chính thức được dùng thay thế cho chữ Hán cho tới ngày nay. Chosŏn'gŭl lúc ban đầu gồm 28 ký tự, sau đó còn 24 ký tự giống như bảng chữ cái La Tinh, và được dùng để ký âm tiếng Triều Tiên. Tuy Hangul đã xuất hiện nhưng chữ Hán (Hanja) vẫn còn được giảng dạy trong trường học. Năm 1972, Bộ Giáo dục Hàn Quốc đã quy định, phải dạy 1800 chữ Hán cơ bản cho học sinh. Còn ở Triều Tiên, người ta đã bỏ hẳn chữ Hán.[cần dẫn nguồn]
Nhật Bản
[sửa | sửa mã nguồn]Chữ Hán du nhập vào Nhật Bản thông qua con đường Triều Tiên. Chữ Hán ở Nhật được gọi là Kanji (
- Chữ Hán (hay Kanji
漢字 ) - Chữ mềm (hay Hiragana ひらがな)
- Chữ cứng (hay Katakana カタカナ)
Chữ Hán trong tiếng Nhật thường có ít nhất hai cách đọc, cách đọc theo âm Hán cổ, được gọi là On-yomi (
Đến năm 1981 thì lượng chữ Hán thông dụng được điều chỉnh lại gồm khoảng 1945 chữ thường dùng, khoảng 300 chữ thông dụng khác dùng để viết tên người. Đến năm 2000, các chữ Hán dùng để viết tên người được điều chỉnh thêm, số lượng tăng lên trên 400 chữ. Các chữ Hán này được lập thành bảng gọi là Bảng chữ Hán thường dùng (Jyoyo Kanji Hyo,
Nghệ thuật thư pháp
[sửa | sửa mã nguồn]Thư pháp là nghệ thuật viết chữ. Nghệ thuật Thư pháp Á Đông là nghệ thuật viết chữ Hán. Chữ Hán là loại chữ tượng hình và viết chữ Hán phải dùng bút lông để làm tăng thêm sức thể hiện của nhà thư pháp. Chữ Hán trong lịch sử đã một mặt làm nhiệm vụ là phương tiện để ghi chép, trao đổi tưởng truyền đạt văn hóa... của thế hệ này đến thế hệ khác, mặt khác nó còn tự tạo cho mình một môn nghệ thuật tạo hình độc đáo, sáng tạo.[24]
Xem thêm
[sửa | sửa mã nguồn]Tham khảo
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ a b
向 熹, 经本植 ,李 润,何 毓玲,康 瑞 琮.古代 汉语知 识辞典 .成都 :四川 辞 书出版 社 , năm 2007, trang 216. - ^
向 光忠 .文字 学 刍论.北京 :商 务印书馆, năm 2012, trang 1–3. - ^
向 光忠 .文字 学 刍论.北京 :商 务印书馆, năm 2012, trang 1, 2. - ^ William H. Baxter, Laurent Sagart. Old Chinese: A New Reconstruction. New York: Oxford University Press, năm 2014, trang 70.
- ^
向 光忠 .文字 学 刍论.北京 :商 务印书馆, năm 2012, trang 2. - ^ William H. Baxter, Laurent Sagart. Old Chinese: A New Reconstruction. New York: Oxford University Press, năm 2014, trang 320.
- ^ 张桂
光 . 汉字学 简论.第 二 版 . 广州: 广东高等 教育 出版 社 , năm 2017, trang 3, 4. - ^ a b
向 光忠 .文字 学 刍论.北京 :商 务印书馆, năm 2012, trang 4. - ^ William H. Baxter, Laurent Sagart. Old Chinese: A New Reconstruction. New York: Oxford University Press, năm 2014, trang 365.
- ^ 张桂
光 . 汉字学 简论.第 二 版 . 广州: 广东高等 教育 出版 社 , năm 2017, trang 4. - ^ William H. Baxter, Laurent Sagart. Old Chinese: A New Reconstruction. New York: Oxford University Press, năm 2014, trang 378.
- ^ Nguyễn Tài Cẩn. Giáo trình lịch sử ngữ âm tiếng Việt (sơ thảo). Nhà xuất bản Giáo dục, năm 1995, trang 47.
- ^
向 光忠 .文字 学 刍论.北京 :商 务印书馆, năm 2012, trang 5. - ^
王 勇 . 东亚语境中 “汉字”词源考 .浙江 大学 学 报(人文 社会 科学 版 ),第 45卷 ,第 1期 , năm 2015, trang 9. - ^ “Danh mục bộ thủ chữ Hán trên wikitionary”. Truy cập 12 tháng 7 năm 2009.
- ^ “Nam văn nữ thị”. PetroTimes. 18 tháng 3 năm 2013.
- ^ Như phó giáo sư Tôn Thất Bách đã đặt tên con trai ông là Tôn Hiếu Anh
- ^ “Tên gọi Vĩnh Long có nghĩa gì?”. Vĩnh Long Online. 8 tháng 8 năm 2017.
- ^ “10 nỗi oan 'khó rửa' mà game thủ phải gánh chịu: Từ câu cửa miệng của phụ huynh đến đề tài quen thuộc của 'Vĩnh Dragon'”. yeuthethao.vn. 3 tháng 8 năm 2020. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 2 năm 2021.
- ^ a b “Những tên phố Hà Nội phải "luận" chữ Hán mới hiểu nghĩa”. Báo Lao Động. 7 tháng 1 năm 2018.
- ^ “
文字 改革 ”. - ^ Trần Nghĩa. “Di sản Hán Nôm Việt Nam”. Viện nghiên cứu Hán Nôm. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 4 năm 2017. Truy cập ngày 27 tháng 4 năm 2017.. Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Truy cập ngày 25 tháng 4 năm 2017.
- ^ “Các tiện ích về chữ Hán và chữ Nôm”. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 20 tháng 7 năm 2017.
- ^ “Thư pháp Việt Nam”. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 7 năm 2017. Truy cập ngày 14 tháng 8 năm 2008.
Liên kết ngoài
[sửa | sửa mã nguồn]Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Chữ Hán. |