Chủ nghĩa Tam Dân
Chủ nghĩa Tam Dân | |||||||||||||||||||||
Tôn Dật Tiên (Tôn Trung Sơn), người đề xuất Chủ nghĩa Tam dân. | |||||||||||||||||||||
Phồn thể | |||||||||||||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Giản thể | |||||||||||||||||||||
|
Bài này nằm trong loạt bài về: Chính trị và chính phủ Trung Hoa Dân Quốc |
|
|
Chủ nghĩa Tam Dân hay Học thuyết Tam Dân (phồn thể:
Nguồn gốc[sửa | sửa mã nguồn]
Năm 1894, khi tổ chức Hưng Trung Hội được thành lập, Tôn Dật Tiên mới chỉ hình thành hai nguyên tắc đại cương: dân tộc và dân quyền. Ông đã chọn ý tưởng thứ ba - dân sinh, trong chuyến đi ba năm đến châu Âu từ năm 1896 đến năm 1898.[2] Ông đã công bố tất cả ba ý tưởng vào mùa xuân năm 1905, trong một chuyến đi khác đến châu Âu. Ông đã trình bày bài phát biểu đầu tiên của "Chủ nghĩa Tam Dân" ở Brussels (Bỉ).[3] Ông tổ chức Hưng Trung Hội ở nhiều thành phố châu Âu. Có khoảng 30 thành viên trong chi nhánh Brussels vào thời điểm đó, còn có 20 thành viên ở Berlin và 10 thành viên ở Paris.[3] Sau khi Trung Quốc Đồng minh Hội thành lập, Tôn Dật Tiên xuất bản một bài xã luận ở tờ Dân Báo (
Hệ tư tưởng này được cho là bị ảnh hưởng nặng nề bởi kinh nghiệm của Tôn Dật Tiên trong thời gian ông ở Hoa Kỳ và chứa đựng các yếu tố của phong trào tiến bộ của Mỹ. Tư tưởng của Lincoln "chính phủ của nhân dân, bởi nhân dân, cho nhân dân", như một nguồn cảm hứng cho Tam Dân của Tôn Dật Tiên.[3] Chủ nghĩa Tam Dân về con người được kết nối với nhau như là phương châm cho sự phát triển hiện đại hóa của Trung Quốc được kéo dài bởi Hồ Hán Dân.[4]
Các nguyên tắc của Chủ nghĩa Tam Dân[sửa | sửa mã nguồn]
Dân tộc độc lập[sửa | sửa mã nguồn]
"Chủ nghĩa dân tộc" (
Dân quyền tự do[sửa | sửa mã nguồn]
"Chủ nghĩa dân quyền" (
Quyền lực chính trị (
Quyền lực quản trị (
Dân sinh hạnh phúc[5][sửa | sửa mã nguồn]
"Chủ nghĩa dân sinh" (
Ông chia sinh kế thành bốn lĩnh vực: quần áo, thực phẩm, nhà ở và di chuyển; và hoạch định cách một chính phủ lý tưởng (Trung Quốc) có thể chăm sóc những điều này cho người dân của mình. Tôn Trung Sơn chết trước khi ông có thể giải thích đầy đủ tầm nhìn của mình về Nguyên tắc này và nó đã là chủ đề của nhiều cuộc tranh luận trong cả Quốc dân Đảng và Đảng Cộng sản Trung Quốc, sau đó cho rằng Tôn ủng hộ chủ nghĩa xã hội. Tưởng Giới Thạch nêu rõ thêm nguyên tắc Dân sinh về tầm quan trọng của phúc lợi xã hội và các hoạt động giải trí đối với một Trung Quốc hiện đại hóa vào năm 1953 tại Đài Loan.[8]
Kinh viện[sửa | sửa mã nguồn]
Di sản[sửa | sửa mã nguồn]
Chủ nghĩa Tam Dân được tuyên bố là cơ sở cho các hệ tư tưởng của Quốc dân đảng dưới thời Tưởng Giới Thạch, của Đảng Cộng sản Trung Quốc dưới thời Mao Trạch Đông, và của Chính phủ Quốc gia được tổ chức lại của Trung Quốc dưới thời Uông Tinh Vệ. Quốc Dân Đảng và Đảng Cộng sản Trung Quốc phần lớn đồng ý về ý nghĩa của Dân tộc, nhưng khác biệt rõ rệt về ý nghĩa của "Dân quyền" và "Dân sinh" vốn được Quốc Dân Đảng hiểu theo thuật ngữ dân chủ xã hội phương Tây và đảng Cộng sản giải thích theo thuật ngữ Mác xít và cộng sản.Chính phủ cộng tác Nhật Bản giải thích chủ nghĩa dân tộc ít hơn về chủ nghĩa chống đế quốc và nhiều hơn về hợp tác với Nhật Bản để tiến tới Đại châu Á về mặt lý thuyết, nhưng trên thực tế, điển hình là lợi ích của Nhật Bản.
Đài Loan[sửa | sửa mã nguồn]
Có một số viện giáo dục đại học (các phòng/khoa đại học và viện sau đại học) ở Đài Loan đã từng cống hiến hết mình cho việc 'nghiên cứu và phát triển' Tam dân về khía cạnh này. Kể từ cuối những năm 1990, các viện này đã tự định hướng lại để các học thuyết chính trị khác cũng được thừa nhận là đáng được xem xét, và đã đổi tên thành trung lập hơn về mặt tư tưởng (chẳng hạn như Democratic Studies Institute).
Ngoài hiện tượng thể chế này, nhiều đường phố và doanh nghiệp ở Đài Loan được đặt tên là "Sān-mín" hoặc cho một trong ba nguyên tắc. Trái ngược với những tên đường phố có nguồn gốc chính trị khác, không có sự đổi tên lớn nào cho những đường phố hoặc tổ chức này trong những năm 1990.
Mặc dù thuật ngữ "Tam dân chủ nghĩa" (
Đối với những người ủng hộ Đài Loan độc lập, một số phản đối liên quan đến cam kết hiến pháp chính thức đối với một loạt các nguyên tắc chính trị cụ thể. Ngoài ra, họ đã chống lại việc giảng dạy bắt buộc trong các trường học và đại học, hiện đã bị bãi bỏ theo kiểu chắp vá bắt đầu từ cuối những năm 1990. Tuy nhiên, có rất ít sự thù địch cơ bản đối với bản thân nội dung các nguyên tắc. Trong những vòng kết nối này, thái độ đối với Tam Dân trải rộng từ sự thờ ơ đến việc diễn giải lại Tam Dân trong bối cảnh địa phương của Đài Loan hơn là trong bối cảnh Trung Quốc.
Việt Nam[sửa | sửa mã nguồn]
Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội là một liên hiệp các nhóm Việt Nam dân tộc chủ nghĩa, do Việt Nam Quốc dân Đảng thân Trung Quốc điều hành. Việt Nam Quốc Dân Đảng dịch trực tiếp thành Vietnamese Kuomintang, và nó dựa trên đảng Quốc Dân Đảng của Trung Quốc. Mục tiêu đã nêu của nó là để thống nhất với Trung Quốc theo Tam Dân, và chống lại Đế quốc Nhật Bản và Pháp.[9][10] Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội được quản lý bởi Nguyễn Hải Thần. Tướng Trương Phát Khuê đã khôn khéo ngăn chặn Cộng sản Việt Nam và Hồ Chí Minh tham gia liên minh, vì mục tiêu chính của ông là ảnh hưởng của Trung Quốc ở Đông Dương.[11] Quốc Dân Đảng đã hỗ trợ những người Việt Nam theo chủ nghĩa dân tộc này trong Thế chiến thứ hai để chống lại lực lượng Nhật Bản.[12]
Tiêu ngữ "Độc lập - Tự do - Hạnh phúc" của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam được trích lược từ Chủ nghĩa Tam dân.[13]
Xem thêm[sửa | sửa mã nguồn]
- Trường Quân sự Hoàng Phố.
- Quốc dân Cách mệnh Quân.
- Lịch sử Trung Hoa Dân Quốc.
- Chính trị Trung Hoa Dân Quốc.
Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]
- ^ Stéphane Corcuff (editor) Memories of the Future: National Identity Issues and the Search for a New Taiwan. ISBN 0765607921
- ^ a b c Li Chien-Nung, translated by Teng, Ssu-yu, Jeremy Ingalls. The political history of China, 1840–1928. Princeton, NJ: Van Nostrand, 1956; rpr. Stanford University Press. ISBN 0-8047-0602-6, ISBN 978-0-8047-0602-5. pp. 203–206.
- ^ a b c Sharman, Lyon (1968). Sun Yat-sen: His life and its meaning, a critical biography. Stanford: Stanford University Press. tr. 94, 271.
- ^ “+{
中華 百科全書 ‧典 藏版 }+”. ap6.pccu.edu.tw. Truy cập ngày 24 tháng 12 năm 2015. - ^ Một số nội dung cơ bản trong tư tưởng dân sinh của Tôn Trung Sơn, Nguyễn Tài Thư, Viện Triết học, Viện Khoa học xã hội Việt Nam - Tạp chí Triết học
- ^ Trescott, Paul B. (2007). Jingji Xue: The History of the Introduction of Western Economic Ideas Into China, 1850-1950. Chinese University Press. tr. 46–48. ISBN 9789629962425.
The teachings of your single-taxer, Henry George, will be the basis of our program of reform.
- ^ Post, Louis Freeland (ngày 12 tháng 4 năm 1912). "Sun Yat Sen's Economic Program for China". The Public. 15: 349. Truy cập ngày 8 tháng 11 năm 2016.
- ^ “〔
民生 主義 育 樂 兩 篇 補 述 〕”. terms.naer.edu.tw. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 12 năm 2015. Truy cập ngày 24 tháng 12 năm 2015. - ^ James P. Harrison (1989). The endless war: Vietnam's struggle for independence. Columbia University Press. tr. 81. ISBN 0-231-06909-X. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2010.
Chang Fa-Kuei vnqdd.
- ^ United States. Joint Chiefs of Staff. Historical Division (1982). The History of the Joint Chiefs of Staff: History of the Indochina incident, 1940-1954. Michael Glazier. tr. 56. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2010.
- ^ Oscar Chapuis (2000). The last emperors of Vietnam: from Tu Duc to Bao Dai. Greenwood Publishing Group. tr. 106. ISBN 0-313-31170-6. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2010.
- ^ William J. Duiker (1976). The rise of nationalism in Vietnam, 1900-1941. Cornell University Press. tr. 272. ISBN 0-8014-0951-9. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2010.
- ^ Tam dân chủ nghĩa vẫn còn thời sự với VN, BBC Tiếng Việt, 7 tháng 10 2011
Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]
- Toàn văn Chủ nghĩa Tam dân của Tiến sĩ Tôn Dật Tiên (chữ Hán phồn thể) Lưu trữ 2009-07-24 tại Wayback Machine
- Tôn Trung Sơn (1995). Chủ nghĩa Tam Dân. Nguyễn Như Diệm; Nguyễn Tu Tri biên dịch.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách dịch giả (liên kết) Nhà phát hành: Viện Thông tin Khoa học Xã hội, dưới sự giúp đỡ của Văn phòng Kinh tế và Văn hóa Đài Bắc tại Hà Nội.